Tokyo – Wikipedia tiếng Việt

Banner-backlink-danaseo

TokyoTokyo (Chinese characters).svgTōkyō trong kanjitrongTên tiếng NhậtKanji

東京

HiraganaとうきょうKatakanaトウキョウKyūjitai

東亰

Chuyển tựRōmajiTōkyōHepburnToukyou

Tokyo (Nhật: 東京都 (とうきょうと) (Đông Kinh đô), Hepburn: Tōkyō-to?,  (trợ giúp·thông tin)) là nơi có đặt chính quyền trung ương của Nhật Bản, cũng có thể gọi là thủ đô không chính thức[3] và là một trong 47 tỉnh của Nhật Bản, nằm ở phía đông của đảo chính Honshū, vùng Kanto. Không chỉ là một đô thị riêng lẻ, Tokyo ngày nay còn là trung tâm của Vùng thủ đô Tōkyō. Trung tâm hành chính của Tokyo đặt ở khu Shinjuku, khu đô thị lớn nhất là Setagayaku. Vùng đô thị Tokyo là vùng đô thị đông dân nhất thế giới với dân số từ 35-39 triệu người (tùy theo cách định nghĩa) và là vùng đô thị có GDP cao nhất thế giới với GDP 1.479 tỷ đô la Mỹ theo sức mua tương đương vào năm 2008[4].

Tokyo là một phần của khu vực Kantō ở phía đông nam của đảo chính Honshu của Nhật Bản, và bao gồm Quần đảo Izu và Quần đảo Ogasawara. Tokyo trước đây được đặt tên là Edo khi Shōgun Tokugawa Ieyasu biến thành phố thành trụ sở của mình vào năm 1603. Nó trở thành thủ đô sau khi thiên hoàng Minh Trị chuyển kinh đô của ông đến đây từ Kyoto vào năm 1868; lúc đó Edo được đổi tên thành Tokyo. Thủ đô Tokyo hiện nay được thành lập vào năm 1943 từ sự thay đổi hành chính của phủ Tokyo (東京府 Tōkyō-fu, “Đông Kinh phủ”, không khác 2 phủ Osaka và Kyoto bây giờ), trong đó thành phố Tokyo (東京市 Tōkyō-shi, “Đông Kinh thị”) cũ nằm ở phía đông của phủ (tương tự như thành phố Osaka và thành phố Kyoto hiện nay), được phân chia lại để chuyển thành 23 khu đặc biệt. Do vậy Tokyo hiện tại theo lý thuyết không phải là thành phố như Hà Nội, Bắc Kinh hay Seoul. Trong tiếng Nhật, Tokyo được chính thức biết đến là tỉnh duy nhất của Nhật Bản mang tên hành chính là “đô” trong “đô đạo phủ huyện”, tên đầy đủ là 東京都 (Tōkyō-to, “Đông Kinh đô”), thể hiện vai trò thủ đô của Nhật Bản và cai trị như một “quần thể đô thị”, khác biệt và kết hợp các yếu tố của một thành phố và một quận, một nét đặc trưng của Tokyo. Trong tiếng Anh, Tokyo được gọi đầy đủ là “Tokyo Metropolis”. Những cái tên như “thành phố Tokyo” hay “Tokyo City” là không chính xác cho Tokyo bây giờ, nó chỉ đúng với thành phố Tokyo cũ.

Tokyo đứng đầu về Chỉ số sức mạnh kinh tế tài chính toàn thế giới và thứ ba về Chỉ số thành phố toàn thế giới. Năm năm trước, Khảo sát Thành phố Toàn cầu của TripAdvisor đã xếp hạng Tokyo trong khuôn khổ ” Trải nghiệm tổng thể và toàn diện tốt nhất ” ( thành phố này cũng đứng đầu trong những loại sau : ” sự có ích của người dân địa phương “, ” Cuộc sống về đêm “, ” shopping “, ” giao thông vận tải công cộng địa phương ” và ” sự thật sạch của đường phố ” ). Theo năm năm ngoái, Tokyo được xếp hạng là thành phố đắt đỏ thứ 11 so với người quốc tế, theo công ty tư vấn Mercer, và cũng là thành phố đắt đỏ thứ 11 trên quốc tế theo khảo sát ngân sách hoạt động và sinh hoạt của Tổ chức Tình báo Kinh tế. Năm năm ngoái, Tokyo được tạp chí Monocle bầu chọn là Thành phố đáng sống nhất quốc tế. Tokyo được xếp hạng tiên phong trong số sáu mươi thành phố trong Chỉ số Thành phố An toàn 2017. Các thành phố sinh viên tốt nhất của QS đã xếp hạng Tokyo là thành phố tốt thứ 3 trên quốc tế để trở thành sinh viên ĐH năm năm nay và thứ 2 năm 2018. Tokyo đã tổ chức triển khai Thế vận hội Mùa hè 1964, Hội nghị G7 năm 1979, Hội nghị G7 năm 1986 và Hội nghị G7 năm 1993 và sẽ tổ chức triển khai World Cup bóng bầu dục 2019, Thế vận hội Mùa hè 2020 và Paralympic Mùa hè 2020 .Tokyo được Saskia Sassen cho là ” TT chỉ huy ” của nền kinh tế tài chính quốc tế, cùng với Luân Đôn và Thành phố Thành Phố New York [ 5 ]. Được xem là một thành phố toàn thế giới, theo xếp hạng do GaWC kiểm kê năm 2008. Tokyo là nơi có cơ quan đầu não của nhà nước Nhật Bản, Hoàng cung Nhật Bản và là nơi cư ngụ của Hoàng gia Nhật Bản .

Kinh đô Tokyo từng được biết đến là Edo, có nghĩa là cửa sông[6]. Edo được đổi tên thành Tokyo (東京 Tōkyō: 東 (Đông) + 京 kyō (Kinh)) khi nó trở thành kinh đô của vương triều thời Minh Trị vào năm 1868, phù hợp với truyền thống Đông Á bao gồm chữ ‘kinh’ (京) trong tên của thành phố thủ đô (như Kyoto (京都), Bắc Kinh (北京) và Nam Kinh (南京)). Trong tiếng Nhật, Tōkyō hay Toukyou (“Đông Kinh”)[7][8] có nghĩa là “Kinh đô ở phía đông”.[9] Trong suốt triều vua Minh Trị, thành phố được gọi là “Tōkei”[10], do chữ “Kinh” – 京 có 2 cách đọc theo On’yomi (âm Hán-Nhật) là “kyou” – きょう và “kei” – けい (như tuyến tàu điện Keio viết là 京王線 (Kinh Vương tuyến) được gọi là Keio-sen). Một vài tài liệu chính thống bằng Tiếng Anh còn sót lại tới ngày nay vẫn sử dụng cách đọc “Tokei”, tuy nhiên cách phiên âm này hiện không còn được dùng nữa.[11]

Cái tên Tokyo được đề xuất kiến nghị lần tiên phong vào năm 1813 trong cuốn sách Kondō Hisaku ( Kế hoạch bí hiểm về thanh toán giao dịch ), được viết bởi Satō Nobuhiro. Khi Ōkubo Toshimichi yêu cầu đổi tên trong thời kỳ Duy tân Minh Trị, theo Oda Kanshi ( 織田完之 ) ông đã có ý tưởng sáng tạo từ cuốn sách đó .

Thời Edo ( trước năm 1869 )[sửa|sửa mã nguồn]

Biểu tượng của Tokyo, cầu Nijubashi nằm trong hoàng cung

Tokyo ban đầu là một làng chài nhỏ có tên là Edo, trước đây từng là một phần của tỉnh Musashi cũ. Edo lần đầu tiên được phát triển bởi gia tộc Edo, vào cuối thế kỷ thứ mười hai. Năm 1457, Ōta Dōkan xây dựng lâu đài Edo. Tầm quan trọng của Tokyo được nâng lên chủ yếu là do công của hai nhà lãnh đạo lỗi lạc: Tokugawa Ieyasu và. Vào năm 1603, sau khi thống nhất các sứ quân đánh lẫn nhau ở Nhật Bản, Shogun Tokugawa Ieyasu thiết lập Edo (bây giờ là Tokyo) như là căn cứ của ông. Kết quả là, thành phố phát triển nhanh chóng và trở thành một trong những thành phố lớn nhất trên thế giới với dân số trên 1 triệu người vào thế kỉ 18. Nó trở thành kinh đô trên thực tế của đất nước Nhật Bản mặc dù Thiên hoàng
vẫn sống ở Kyoto, kinh đô Nhật Bản thời bấy giờ. (Xem Edo). Trong thời gian này, thành phố được hưởng một thời gian dài của hòa bình được gọi là thời kỳ Tokugawa yên bình. Việc không phải hứng chịu sự tàn phá do chiến tranh gây ra cho phép Edo cống hiến phần lớn các nguồn lực của mình để xây dựng lại thành phố sau những vụ cháy, trận động đất và những thảm họa thiên nhiên tàn phá khác. Tuy nhiên, thời gian kéo dài này đã kết thúc với sự xuất hiện của Thiếu tướng Matthew C. Perry vào năm 1853. Thiếu tướng Perry thương lượng việc mở các cảng Shimoda và Hakodate, dẫn đến sự gia tăng nhu cầu hàng hóa nước ngoài mới và sau đó sự gia tăng nghiêm trọng về lạm phát. Bất ổn xã hội gắn liền với sự trỗi dậy của những mức giá cao hơn và lên đến đỉnh điểm trong các cuộc nổi loạn và cuộc biểu tình lan rộng, đặc biệt là dưới hình thức “đập vỡ” của các cơ sở lúa gạo. Trong khi đó, những người ủng hộ Hoàng đế Minh Trị thừa hưởng sự gián đoạn rằng những cuộc biểu tình nổi loạn lan rộng này đã làm tăng thêm sức mạnh bằng cách lật đổ Shogun Tokugawa cuối cùng, Yoshinobu, vào năm 1867. Sau 265 năm, thời kỳ Tokugawa yên bình kết thúc.

Kidai Shōran ( 熈代勝覧 ), 1805. Nó diễn đạt những cảnh từ thời Edo diễn ra dọc theo con phố chính Nihonbashi ở Tokyo .
Một góc khu thương mại Ginza năm 1933

Sau 263 năm, chế độ Mạc phủ bị lật đổ và Minh Trị Thiên hoàng (Meiji) phục hồi Đế quyền. Ngày 3 tháng 9 năm 1868, Thiên hoàng Minh Trị ra chiếu dời đô và năm 1869, khi Minh Trị Thiên Hoàng vừa 17 tuổi đã cho dời đô từ Kyoto về Edo, và theo đó, thành phố được đặt tên lại là “Tokyo” (Đông Kinh). Tokyo trước đây vốn dĩ đã là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của Nhật Bản[12], bên cạnh đó, với việc là nơi ở của nhà vua, Tokyo đã trở thành kinh đô trên thực tế của đất nước, thành Edo trước đây trở thành Hoàng cung. Thành phố Tokyo được chính thức thành lập vào ngày 1 tháng 5 năm 1889 và tiếp tục là thủ đô cho đến khi nó trở thành một quận vào năm 1943 và sáp nhập vào “Khu đô thị mở rộng” của Tokyo.

Tokyo, cũng như Osaka, đã được phong cách thiết kế từ thập niên 1900 như là thành phố đường tàu, nghĩa là thành phố xây xung quanh những nhà ga xe lửa lớn với một tỷ lệ dân số cao, do đó những đường tàu nội thành của thành phố hoàn toàn có thể được xây với giá khá rẻ ở độ cao của mặt đường. Điều này khác với những thành phố trên quốc tế khác như Los Angeles với tỷ lệ dân thấp đa phần là cho xe hơi chạy, và mặc dầu những đường cao tốc đã được thiết kế xây dựng, những phong cách thiết kế cơ bản vẫn không đổi khác cho đến ngày thời điểm ngày hôm nay .Tokyo đã trải qua hai tai ương lớn và phục sinh một cách đáng kể từ hai sự kiện đó. Một là trận động đất lớn Kanto vào năm 1923 [ 13 ], và tai ương kia là cuộc Chiến tranh quốc tế lần thứ hai ( 1939 – 1945 ). Những oanh tạc năm 1945 cũng diệt trừ không kém hai quả bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki cộng lại. Nhiều khu vực trong thành phố bị san phẳng .
Tokyo bị quân Đồng minh oanh tạc năm 1945Năm 1943, thành phố Tokyo sáp nhập với Q. Tokyo để tạo thành ” Tỉnh Hà Nội Thủ Đô ” của Tokyo. Kể từ đó, Chính quyền thành phố Tokyo đóng vai trò là chính quyền sở tại tỉnh cho Tokyo, cũng như quản trị những phường đặc biệt quan trọng của Tokyo, cho những gì trước kia là Thành phố Tokyo. Chiến tranh quốc tế thứ hai đã tàn phá hàng loạt thành phố do những cuộc không kích của quân Đồng minh vào Nhật Bản và sử dụng bom gây cháy. Vụ đánh bom Tokyo năm 1944 và 1945 được ước tính đã giết chết từ 75.000 đến 200.000 dân thường và khiến hơn 50% thành phố bị tàn phá. Đêm quyết liệt nhất của đại chiến diễn ra vào ngày 9 tháng 10 năm 1945, đêm của cuộc đột kích ” Hội nghị Chiến dịch ” của Mỹ, khi gần 700.000 quả bom gây cháy nổ ở nửa phía đông của thành phố, đa phần ở những phường dân cư đông đúc. Hai phần năm của thành phố đã bị thiêu rụi trọn vẹn, hơn 276.000 tòa nhà bị tàn phá, 100.000 dân thường thiệt mạng và 110.000 người khác bị thương. Từ năm 1940 đến năm 1945, dân số của thành phố thủ đô hà nội của Nhật Bản đã giảm từ 6.700.000 xuống dưới 2.800.000, với phần đông những người mất nhà sống trong ” những túp lều xiêu vẹo, tạm bợ ” .Sau cuộc chiến tranh, Tokyo được kiến thiết xây dựng lại trọn vẹn, và được tọa lạc cho quốc tế xem trong Thế vận hội Mùa hè 1964 tổ chức triển khai tại thành phố này. Tokyo trở thành thành phố lớn nhất trên quốc tế vào năm 1965 ( vượt qua khỏi Thành Phố New York ). Thập niên 1970 đem lại những tăng trưởng về chiều cao như Sunshine 60, một trường bay mới và gây tranh cãi ( Sân bay quốc tế Narita ) tại Narita ( rất xa bên ngoài Tokyo ), và một mạng lưới hệ thống dân số tăng lên khoảng chừng 11 triệu người ( trong khu vực metropolitan ) .Hệ thống tàu điện ngầm của Tokyo và những đường xe lửa đi lại trong thành phố trở thành bận rộn nhất trên quốc tế chính do càng nhiều người chuyển dời đến khu vực này. Vào thập niên 1980, giá địa ốc tăng vọt trong nền kinh tế tài chính khủng hoảng bong bóng : nhiều người giàu lên nhanh gọn, nhưng khủng hoảng bong bóng vỡ đầu thập niên 1990 và nhiều công ty, ngân hàng nhà nước, và cá thể bị vướng phải giá địa ốc suy giảm về giá trị. Sự suy thoái và khủng hoảng kinh tế tài chính theo sau đó, làm thập niên 1990 thành ” thập niên bị mất ” của Nhật, mà giờ đây nó đang phục sinh chậm trễ .
Tokyo vẫn tận mắt chứng kiến những tăng trưởng đô thị mới trên những vùng đất ít sinh lợi hơn. Những khu công trình gần đây gồm có Ebisu Garden Place, Tennozu Isle, Shiodome, Roppongi Hills, Shinagawa ( giờ đây cũng là nhà ga Shinkansen ), và nhà ga Tokyo ( phía Marunouchi ). Các tòa nhà quan trọng đã bị phá bỏ để dành chỗ cho những khu siêu thị nhà hàng tân tiến hơn như dãy đồi Omotesando. Các dự án Bất Động Sản đắp thêm đất ở Tokyo cũng đã diễn ra trong nhiều thế kỉ. Nổi bật nhất là khu vực Odaiba, giờ đây là một TT mua và bán và vui chơi .Tokyo bị tàn phá bởi những trận động đất mạnh vào năm 1703, 1782, 1812, 1855 và đại thảm họa động đất 1923. Trận 1923, với ước tính cường độ vào khoảng chừng 8.3, giết hại 142.000 người .Các dự án Bất Động Sản tái tạo đất ở Tokyo cũng đã diễn ra trong nhiều thế kỷ. Nổi bật nhất là khu vực Odaiba, hiện là TT shopping và vui chơi lớn. Cũng có nhiều dự án Bất Động Sản khác nhau được đề xuất để vận động và di chuyển những cơ quan chức năng của nhà nước từ Tokyo đến một thủ đô hà nội thứ hai ở một vùng khác của Nhật Bản, để làm giảm đi sự tăng trưởng nhanh gọn ở Tokyo và vực dậy những vùng chậm tăng trưởng về mặt kinh tế tài chính. Những dự án Bất Động Sản này còn nhiều tranh cãi trong Nhật Bản và chưa được triển khai .Thảm họa động đất và sóng thần năm 2011 tàn phá phần nhiều bờ biển hướng đông bắc của Honshu đã hoàn toàn có thể cảm nhận được ở Tokyo. Tuy nhiên, do hạ tầng kháng động đất của Tokyo rất tốt, thiệt hại ở Tokyo là rất nhỏ so với những khu vực trực tiếp bị ảnh hưởng tác động bởi sóng thần [ 14 ] mặc dầu hoạt động giải trí trong thành phố hầu hết đã bị dừng lại. [ 15 ] Cuộc khủng hoảng cục bộ hạt nhân gây ra bởi những cơn sóng thần cũng không khiến Tokyo bị thiệt hại gì đáng kể, bất chấp sự ngày càng tăng bất ngờ đột ngột về mức độ bức xạ. [ 16 ] [ 17 ]Vào ngày 7 tháng 9 năm 2013 Tokyo dã được chọn làm chủ nhà của Olympic 2020. Tokyo sẽ là thành phố châu Á tiên phong đăng cai Thế vận hội hai lần. [ 18 ]Do sự tiến hóa trong chiêu thức chữ Nhật được phiên âm ra Romaji, những văn bản cũ hoàn toàn có thể nhắc đến thành phố như thể ” Tokio ” .

Địa lý và hành chính[sửa|sửa mã nguồn]

Ảnh vệ tinh của 23 khu đặc biệt quan trọng Tokyo được chụp bởi NASA ‘ s Landsat 7 Tòa nhà chính quyền sở tại thành phố TokyoPhần lục địa của Tokyo nằm ở phía tây-bắc của vịnh Tokyo và ước tính có chiều dài 90 km từ đông tới tây và 25 km từ bắc tới nam. Tỉnh Chiba tiếp giáp phía đông, Yamanashi phía tây, Kanagawa phía nam và Saitama phía bắc. Phần nằm trong lục địa của Tokyo được phân loại thành những khu đặc biệt quan trọng ( chiếm phần phía đông ) và vùng Tama chạy dọc về hướng tây .Ranh giới hành chính của vùng đại Tokyo còn gồm có hai chuỗi hòn hòn đảo thuộc Thái Bình Dương chạy thẳng về phía nam : Quần đảo Izu và quần đảo Ogasawara, lê dài hơn 1000 km so với vùng đất liền Nhật Bản .

Theo luật Nhật Bản, Tokyo được phân định là Đô(都-to)[19]. Cấu trúc hành chính ngang bằng với các tỉnh của Nhật Bản. Trong vùng Tokyo thì lại có nhiều cấu trúc hành chính nhỏ hơn, được gọi là thành phố. Bao gồm 23 khu đặc biệt (特別区-khu), đây là những khu tự trị, mỗi khu có một thị trưởng và một hội đồng riêng và có cấu trúc của một thành phố. Ngoài 23 khu đặc biệt này, Tokyo còn có 26 tiểu thành phố (市 –thị), 5 thị trấn (町-đinh) và 8 làng (村-thôn), mỗi phân khu hành chính đều có chính quyền địa phương riêng. Người đứng đầu chính quyền thủ đô Tokyo là một tỉnh trưởng được bầu công khai và hội đồng thành phố. Trụ sở của thành phố nằm ở khu Shibuya, đây là nơi điều hành toàn bộ Tokyo, bao gồm cả sông, ngòi, đầm, đảo, công viên quốc gia, thêm vào đó là cả những tuyến phố, những tòa nhà chọc trời và hệ thống tàu điện ngầm.

23 khu đặc biệt quan trọng[sửa|sửa mã nguồn]

23 khu đặc biệt quan trọng của Tokyo

Khu đặc biệt (tokubetsu-ku) của Tokyo bao gồm một vùng từng hình thành nên thành phố Tokyo. Vào ngày 1 tháng 7 năm 1943, thành phố Tokyo được sáp nhập vào tỉnh Tokyo (東京府, Tōkyō-fu) và thành lập nên “tỉnh thủ đô”. Sau vụ sáp nhập, không giống các khu thành phố khác ở Nhật Bản, những khu này không thuộc bất cứ một thành phố bao bọc lớn hơn nào. Mỗi khu là một đô thị tự trị với thị trưởng được bầu ra bởi chính khu đó và có hội đồng giống các thành phố khác ở Nhật. Điểm khác biệt của các khu này khác biệt so với các thành phố khác là mối quan hệ hành chính đặc biệt với chính quyền tỉnh. Vài chức năng đô thị nhất định, chẳng hạn như cung cấp nước, hệ thống cống rãnh, cứu hỏa được điều hành bởi chính quyền thủ đô Tokyo. Để trả cho những chi phí hành chính phát sinh, tỉnh thu thuế đô thị, thuế này sẽ thường được thu bởi thành phố[20].
Hiện nay Tokyo có 23 khu đặc biệt gồm:

HibiyaboriPhía tây của những khu đặc biệt quan trọng gồm có những thành phố, thôn, làng có cấu trúc hành chính giống những nơi khác ở Nhật. Dù đóng vai trò đa phần là những nơi sinh sống của người những người dân thao tác ở TT Tokyo nhưng một vài nơi ở đây cũng có những cơ sở công nghiệp và thương mại địa phương. Những khu này thường được gọi là vùng Tama hay Tây Tokyo .
Có 26 thành phố nằm ở vùng phía tây Tokyo :
Đoạn cực tây có Q. Nishitama. Phần lớn vùng này là núi và điều kiện kèm theo địa hình không tương thích cho tăng trưởng đô thị. Ngọn núi cao nhất ở Tokyo là núi Kumotori, cao 2,017 m ; những ngọn núi khác gồm có Takasu ( 1737 m ), Odake ( 1266 m ), và Mitake ( 929 m ). Hồ Okutama, gần sông Tama cạnh tỉnh Yamanashi, là hồ lớn nhất của Tokyo .
Quần đảo Izu được chú thích màu đen Quần đảo Ogasawara Islands được chú thích màu đenNhững hòn hòn đảo ngoài khơi phía nam của vùng Kanto đều thuộc sự quản trị của Tokyo, mặc dầu vị trí địa lý của chúng ở gần những tỉnh khác hơn là Kanagawa, Chiba hay Shizuoka. Vì khoảng cách rất xa của những hòn hòn đảo này so với trụ sở chính quyền sở tại Tokyo ở Shibuya ( tới 1850 km ) nên những văn phòng chính quyền sở tại địa phương quản trị những hòn hòn đảo này .Quần đảo Izu là một nhóm những hòn đảo núi lửa hình thành nên Công viên Quốc gia Fuji-Hakone-Izu. Những hòn hòn đảo nằm gần Tokyo nhất theo thứ tự gồm : Izu Ōshima, Toshima, Niijima, Shikinejima, Kozushima, Miyakejima, Mikurajima, Hachijojima, và Aogashima. Izu Ōshima và Hachijojima là những thị xã, những hòn hòn đảo còn lại là thôn, trong đó Niijima và Shikinejima là một thôn .Quần đảo Ogasawara gồm có, từ bắc tới nam, Chichi-jima, Nishinoshima, Haha-jima, Kita Iwo Jima, Iwo Jima, và Minami Iwo Jima. Ogasawara cũng quản trị hai hòn đảo nhỏ ngoài khơi : Minami Torishima và Okino Torishima ( cách Tokyo 1850 km ), hai điểm cực đông và cực nam của chủ quyền lãnh thổ Nhật Bản. Yêu sách của Nhật Bản về một vùng độc quyền kinh tế tài chính ( EEZ ) xung quanh Okinotorishima đang bị Trung Quốc và Nước Hàn tranh cãi vì họ coi Okinotorishima là những tảng đá không hề ở được, không hề tiến hành EEZ. Hai chuỗi hòn đảo và những hòn hòn đảo ngoài khơi này không có người sinh sống lâu bền hơn mà chỉ là nơi đồn trú của những sĩ quan thuộc Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản. Chỉ có hai hòn đảo Chichi-jima và Haha-jima là có người địa phương sinh sống. Hai hòn đảo này hình thành nên cả hai tiểu khu Ogasawara và thôn Ogasawara .

Vườn vương quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Vườn vương quốc OgasawaraCó một vài khu vui chơi giải trí công viên quốc gia thuộc Tokyo gồm có :
Tính đến ngày 31 tháng 3 năm 2008, 36 % tổng diện tích quy hoạnh đất của tỉnh được chỉ định là Công viên tự nhiên ( chỉ đứng sau tỉnh Shiga ), đơn cử là vườn vương quốc Chichibu Tama Kai, vườn vương quốc Fuji-Hakone-Izu và vườn vương quốc Ogasawara ( là Di sản quốc tế của UNESCO ) ; Công viên vương quốc Meiji no Mori Takao ; và Akikawa Kyūryō, Hamura Kusabana Kyūryō, Sayama, Takao Jinba, Takiyama và Tama Kyūryō Công viên tự nhiên tỉnh .Một số kho lưu trữ bảo tàng được đặt tại Công viên Ueno : Bảo tàng Quốc gia Tokyo, Bảo tàng Khoa học và Tự nhiên Quốc gia, Bảo tàng Shitamachi và Bảo tàng Nghệ thuật Phương Tây, trong số những người khác. Ngoài ra còn có những tác phẩm nghệ thuật và thẩm mỹ và tượng tại một số ít nơi trong khu vui chơi giải trí công viên. Ngoài ra còn có một sở thú trong khu vui chơi giải trí công viên, và khu vui chơi giải trí công viên là một điểm đến phổ cập để ngắm hoa anh đào .
Một ký hiệu song ngữ có hướng dẫn ( bằng tiếng Nhật và tiếng Anh ) trong trường hợp xảy ra động đất ( Shibuya )

Những dư chấn nhỏ[sửa|sửa mã nguồn]

Tokyo nằm gần ranh giới của ba mảng địa chất, làm cho nó trở thành một khu vực liên tục xảy ra những trận động đất chậm tác động ảnh hưởng đến khu vực đô thị. Trớ trêu thay, những đợt dư chấn nhỏ ít khi Open trong nội ô Tokyo. Không có gì lạ ở khu vực tàu điện ngầm có hàng trăm trận động đất nhỏ này ( cường độ 4-6 ) hoàn toàn có thể cảm nhận được trong một năm, một điều mà dân cư địa phương thường không lo lắng nhưng hoàn toàn có thể là nỗi lo ngại không chỉ so với hành khách quốc tế mà cả người Nhật từ nơi khác mới đến Thành Phố Hà Nội. Chúng hiếm khi gây ra nhiều thiệt hại vì chúng quá nhỏ hoặc quá xa do những trận động đất có xu thế nhảy quanh khu vực. Đặc biệt là những khu vực ngoài khơi và ở mức độ lớn ít hơn Chiba và Ibaraki .

Những trận động đất lớn[sửa|sửa mã nguồn]

Tokyo đã bị tác động ảnh hưởng bởi những trận động đất lớn vào năm 1703, 1782, 1812, 1855, 1923 và bị ảnh hưởng tác động gián tiếp trong năm 2011. Trận động đất năm 1923, với độ lớn ước tính 8,3 độ Richter, đã giết chết 142.000 người, đó lần ở đầu cuối khu vực đô thị bị động đất ” tiến công ” trực tiếp. Trọng tâm động đất năm 2011 là hàng trăm km và không dẫn đến tử trận trực tiếp ở khu vực đô thị .
Tokyo vào buổi tối Tòa nhà chính quyền sở tại Tōkyō .Tính đến tháng 10 năm 2012, ước tính có khoảng chừng 13.506 triệu người sống tại Tokyo với 9.214 triệu người sống tại 23 khu đặc biệt quan trọng. Vào ban ngày, dân số tăng thêm 2.5 triệu người, gồm những người đi làm và học viên lưu chuyển từ những vùng lân cận vào TT. Tác động này hoàn toàn có thể thấy rõ nhất ở 3 khu TT là Chiyoda, Chūō và Minato, những khu có dân số là 326,000 vào đêm hôm và 2.4 triệu người vào ban ngày theo tìm hiểu dân số năm 2005. Toàn bộ tỉnh Tokyo có 13,750,000 dân cư vào tháng 10 năm 2007 ( 8,653,000 trong 23 khu ), với số tăng 3 triệu người vào ban ngày. Dân số Tokyo đang liên tục tăng do người dân đang có khuynh hướng quay trở lại sống tại những khu TT khi giá đất ngày càng giảm nhẹ .Theo một thống kê trong quá khứ năm 1889 cho biết, Bộ Nội vụ ghi nhận 1.375.937 người ở thành phố Tokyo và tổng số 1.694.292 người ở Tokyo-fu. Trong cùng năm đó, tổng số 779 người quốc tế được ghi nhận là cư trú tại Tokyo. Quốc tịch phổ cập nhất là người Anh ( 209 dân cư ), tiếp theo là quốc tịch Hoa Kỳ ( 182 ) và quốc tịch triều đại nhà Thanh ( 137 ) .Tính đến năm 2005, những người có quốc tịch quốc tế sống tại Tokyo theo tìm hiểu gồm : người Trung Quốc ( 123,661 ), người Nước Hàn ( 106,697 ), người Bắc Triều Tiên ( 62,000 ), người Phillipin ( 31,077 ), người Mỹ ( 18,848 ), người Anh ( 7,696 ), người Brazil ( 5,300 ) và người Pháp ( 3,000 ). [ 21 ]
Tốc độ tăng trưởng dân số Tokyo từ năm 1920
Người nước ngoài thường trú có đăng ký[22]

Quốc tịch
Dân số (2018)

 
199,949

 
90,438

 
32,334

 
32,089

   
26,157

 
18,568

 
17,578

 
11,153

 
9,719

 
7,958

Khác
75,557

Tăng

 10.0% và hơn

 7.5 – 9.9%

 

 5.0 – 7.4%

 2.5 – 4.9%

 0.0 – 2.4%

Giảm

 0.0 – 2.4%

 2.5 – 4.9%

 5.0 – 7.4%

 7.5 – 9.9%

 10.0% và hơn

Biểu đồ này là vận tốc tăng trưởng của những đô thị của Tokyo, Nhật Bản. Nó được ước tính bởi tìm hiểu dân số được triển khai trong năm 2005 và 2010 .

Dân số Tokyo[23]

Theo khu vực1

Tokyo
Khu đặc biệt
Tama Area
Đảo

12.79 triệu
8.653 triệu
4.109 triệu
28,000

Theo tuổi2

Vị thành niên (0–14)
Tuổi lao động (15–64)
Nghỉ hưu (65+)

1.461 triệu (11.8%)
8.546 triệu (69.3%)
2.332 triệu (18.9%)

Theo giờ3

Ban ngày
Ban đêm

14.978 triệu
12.416 triệu

Theo quốc tịch

Cư dân quốc tế
364,6534 ( 2.9 % trong toàn bộ )

1 Estimates as of ngày 1 tháng 10 năm 2007.
2 as of ngày 1 tháng 1 năm 2007 .

3 tính đến năm 2005 National Census.
4 as of ngày 1 tháng 1 năm 2006 .

Khí hậu và địa chất[sửa|sửa mã nguồn]

Tokyo mang đặc thù khí hậu cận nhiệt đới ẩm, khí hậu ôn đới gió mùa [ 24 ] với 4 mùa rõ ràng : xuân, hạ, thu, đông. Mùa hè nóng ẩm và mùa đông khá rét với những đợt rét mạnh từ áp cao Xibia. Khu vực này, giống như phần đông Nhật Bản, trải qua độ trễ theo mùa trong một tháng, với tháng ấm nhất là tháng 8, trung bình 26,4 °C ( 79,5 °F ) và tháng mát nhất là tháng 1, trung bình 5,2 °C ( 41,4 °F ). Nhiệt độ thấp kỷ lục là − 9,2 °C ( 15,4 °F ) vào ngày 13 tháng 1 năm 1876, trong khi mức cao kỷ lục là 39,5 °C ( 103,1 °F ) vào ngày 20 tháng 7 năm 2004. Kỷ lục nhiệt độ thấp cao nhất là 30,3 °C ( 86,5 °F ) vào ngày 12 tháng 8 năm 2013, khiến Tokyo trở thành một trong bảy khu vực quan sát tại Nhật Bản có nhiệt độ thấp trên 30 °C ( 86,0 °F ). Lượng mưa hàng năm trung bình gần 1.530 mm ( 60,2 in ), với mùa hè khí ẩm hơn và mùa đông khô hơn. Lượng tuyết tuy rơi lẻ tẻ nhưng vẫn tiếp tục diễn ra hàng năm. [ 25 ] Tháng ẩm nhất kể từ khi những hồ sơ mở màn vào năm 1876 là tháng 10 năm 2004, với 780 milimét ( 30 in ) mưa, gồm có 270,5 mm ( 10,65 in ) vào ngày 9 của tháng đó ; trong bốn tháng sau cuối được ghi nhận quan sát không có mưa là tháng 12 năm 1995. Lượng mưa hàng năm đã giao động từ 879,5 mm ( 34,63 in ) năm 1984 đến 2,229,6 mm ( 87,78 in ) vào năm 1938. Tokyo là một ví dụ nổi bật cho loại khí hậu cận nhiệt, đô thị hòn đảo, dân số đông góp một phần quan trọng đến khí hậu thành phố. [ 26 ] Tokyo được xem là ” một ví dụ thuyết phục cho mối quan hệ giữa sự tăng trưởng đô thị và khí hậu “. Tokyo cũng thường có bão hàng năm, nhưng phần đông là bão yếu. [ 27 ] [ 28 ] Khí hậu ngoài khơi của Tokyo biến hóa đáng kể so với thành phố. Khí hậu của Chichi-jima ở làng Ogasawara nằm trên ranh giới giữa khí hậu nhiệt đới gió mùa savanna ( phân loại Köppen Aw ) và khí hậu cận nhiệt đới ẩm ( phân loại Köppen Cfa ). Nó nằm cách khu vực đại đô thị Tokyo khoảng chừng 1.000 km về phía nam dẫn đến những điều kiện kèm theo khí hậu khác nhau .Lãnh thổ cực đông của Tokyo, hòn đảo Minamitorishima ở làng Ogasawara, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa savanna ( phân loại Köppen Aw ). Các hòn đảo Izu và Ogasawara của Tokyo bị tác động ảnh hưởng bởi trung bình 5,4 cơn bão mỗi năm, so với 3,1 ở lục địa Kantō .

Dữ liệu khí hậu của Tokyo (Ōtemachi, Chiyoda ward, 1981–2010)

Tháng

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

Năm

Cao kỉ lục °C (°F)

22.6

24.9

25.3

29.2

31.9

36.2

39.5

39.1

38.1

32.6

27.3

24.8

39,5

Trung bình cao °C (°F)

9.6

10.4

13.6

19.0

22.9

25.5

29.2

30.8

26.9

21.5

16.3

11.9

20,0

Trung bình ngày, °C (°F)

5.2

5.7

8.7

13.9

18.2

21.4

25.0

26.4

22.8

17.5

12.1

7.6

16,3

Trung bình thấp, °C (°F)

0.9

1.7

4.4

9.4

14.0

18.0

21.8

23.0

19.7

14.2

8.3

3.5

13,0

Thấp kỉ lục, °C (°F)

−9.2

−7.9

−5.6

−3.1

2.2

8.5

13.0

15.4

10.5

−0.5

−3.1

−6.8

−9,3

Giáng thủy mm (inch)

52.3
(2.059)

56.1
(2.209)

117.5
(4.626)

124.5
(4.902)

137.8
(5.425)

167.7
(6.602)

153.5
(6.043)

168.2
(6.622)

209.9
(8.264)

197.8
(7.787)

92.5
(3.642)

51.0
(2.008)

1.528,8
(60,189)

Lượng tuyết rơi cm (inch)

5
(2)

5
(2)

1
(0.4)

0
(0)

0
(0)

0
(0)

0
(0)

0
(0)

0
(0)

0
(0)

0
(0)

0
(0)

11
(4,3)

% độ ẩm

52

53

56

62

69

75

77

73

75

68

65

56

62

Số ngày giáng thủy TB

( ≥ 0.5 mm )

5.3

6.2

11.0

11.0

11.4

12.7

11.8

9.0

12.2

10.8

7.6

4.9

114,0

Số ngày tuyết rơi TB

2.8

3.7

2.2

0.2

0.0

0.0

0.0

0.0

0.0

0.0

0.0

0.8

9,7

Số giờ nắng trung bình hàng tháng

184.5

165.8

163.1

176.9

167.8

125.4

146.4

169.0

120.9

131.0

147.9

178.0

1.876,7

Nguồn: Japan Meteorological Agency (records 1872–nay)[29][30][31]
Tokyo đã phát hành một chiêu thức để cắt giảm khí thải nhà kính. Thống đốc Shintaro Ishihara đã tạo ra mạng lưới hệ thống số lượng giới hạn khí thải tiên phong của Nhật Bản, nhằm mục đích giảm tổng lượng phát thải khí nhà kính tới 25 % vào năm 2020 từ mức 2000. Tokyo là một ví dụ về hòn đảo nhiệt đô thị và hiện tượng kỳ lạ này đặc biệt quan trọng nghiêm trọng tại những khu đặc biệt quan trọng của nó. Theo Chính quyền thành phố Tokyo, nhiệt độ trung bình hàng năm đã tăng khoảng chừng 3 °C ( 5,4 °F ) trong 100 năm qua. Tokyo đã được trích dẫn là một ” ví dụ thuyết phục về mối quan hệ giữa tăng trưởng đô thị và khí hậu. “Năm 2006, Tokyo đã phát hành ” Dự án 10 năm cho Tokyo xanh ” sẽ được hiện thực hóa vào năm năm nay. Nó đặt tiềm năng tăng cây xanh ven đường ở Tokyo lên 1 triệu ( từ 480.000 ) và thêm 1.000 ha khoảng trống xanh 88 trong số đó sẽ là một khu vui chơi giải trí công viên mới tên là ” Umi no Mori ” ( rừng biển ) sẽ nằm trên một hòn hòn đảo khai hoang ở vịnh Tokyo, nơi từng là bãi rác. Từ năm 2007 đến 2010, 436 ha trong số 1.000 ha khoảng trống xanh đã được quy hoạch đã được tạo ra và 220.000 cây được trồng với tổng số 700.000. Trong năm năm trước, cây xanh bên đường ở Tokyo đã tăng lên 950.000 và thêm 300 ha khoảng trống xanh đã được thêm vào .
Đường HamamatsuchoKhông chỉ là TT hành chính của Nhật Bản mà Tokyo còn là TT kinh tế tài chính của quốc tế. Là một trong 3 TT kinh tế tài chính toàn thế giới cùng với Thành Phố New York và Luân Đôn, theo tìm hiểu của PricewaterhouseCoopers, khu đại đô thị Tokyo gồm có cả Yokohama ( 38 triệu người ) có tổng GDP theo nhu cầu mua sắm tương tự là 2000 tỷ USD năm 2012, biến nó trở thành vùng đô thị có GDP lớn nhất toàn thế giới. Tính đến năm 2008, có 47 công ty trong list Global 500 có trụ sở đặt tại Tokyo, gấp đôi so với Paris .Tokyo là TT kinh tế tài chính quốc tế, là nơi đặt trụ sở chính của một vài ngân hàng đầu tư và công ty bảo hiểm lớn nhất quốc tế, đóng vai trò đầu mối của Nhật về giao thông vận tải, công nghiệp xuất bản và phát thanh truyền hình. Trong tăng trưởng mang tính tập trung chuyên sâu của nền kinh tế tài chính Nhật Bản theo sau cuộc Chiến tranh quốc tế lần thứ hai, nhiều công ty lớn vận động và di chuyển tổng hành dinh của họ từ những thành phố như Osaka ( TP. hà Nội thương mại lịch sử vẻ vang của Nhật ) đến Tokyo, trong nỗ lực tận dụng sự xâm nhập thuận tiện hơn vào mạng lưới hệ thống nhà nước. Xu hướng này đã mở màn chậm dần đi do sự bùng nổ dân số ở Tokyo và mức sống đắt đỏ ở đó .Tokyo được xếp hạng bởi Economist Intelligence Unit là thành phố đắt đỏ nhất trên quốc tế ( giá hoạt động và sinh hoạt cao nhất ) trong 14 năm liền cho đến 2006 [ 32 ]. Chú ý rằng điều này chỉ đúng cho mức sống của một thương gia người phương Tây. Nhiều người Nhật vẫn sống được qua ngày một cách tiết kiệm chi phí ở Tokyo, do tỉ lệ tiết kiệm ngân sách và chi phí vương quốc cao .

Shibuya thu hút nhiều khách du lịch.Tokyo nổi lên như một TT kinh tế tài chính quốc tế số 1 ( IFC ) vào những năm 1960 và được diễn đạt là một trong ba ” TT chỉ huy ” cho nền kinh tế tài chính toàn thế giới, cùng với 2 thành phố Thành Phố New York và London. Trong Chỉ số Trung tâm Tài chính Toàn cầu 2017, Tokyo được xếp hạng là TT kinh tế tài chính cạnh tranh đối đầu thứ năm trên quốc tế ( bên cạnh những thành phố như London, Thành phố Thành Phố New York, San Francisco, Chicago, Sydney, Boston và Toronto trong top 10 ), và cạnh tranh đối đầu thứ ba ở châu Á ( sau Nước Singapore và Hồng Kông ). Thị trường kinh tế tài chính Nhật Bản Open lừ đừ vào năm 1984 và đẩy nhanh quy trình quốc tế hóa với ” Vụ nổ lớn Nhật Bản ” năm 1998. Bất chấp sự Open của Nước Singapore và Hồng Kông như những TT kinh tế tài chính cạnh tranh đối đầu, Tokyo IFC vẫn giữ được vị trí điển hình nổi bật ở châu Á. Thị phần sàn chứng khoán Tokyo lớn thứ nhì trên thế giới tính theo trị giá thị trường của những CP được niêm yết, với hơn 4.000 tỷ USD. Chỉ có Thị phần sàn chứng khoán Thành Phố New York là lớn hơn. Tuy nhiên, tầm vóc của nó đã giảm đi đáng kể từ sau vụ khủng hoảng bong bóng của thị trường địa ốc đạt cực đỉnh đầu những năm 1990, khi nó chiếm trên 60 Xác Suất của hàng loạt trị giá sàn chứng khoán trên quốc tế .
Tính đến năm 2003, theo Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản, Tokyo có 8,460 ha đất nông nghiệp, là tỉnh có tỉ lệ đất nông nghiệp thấp nhất cả nước. Đất nông nghiệp tập trung chuyên sâu đa phần ở tây Tokyo. Những mẫu sản phẩm dễ thối hỏng như rau, hoa quả và hoa hoàn toàn có thể thuận tiện chuyển tới những khu chợ ở phía đông tỉnh. Rau bina Nhật Bản và rau bina là những loại rau quan trọng nhất, đến năm 2000, Tokyo cung ứng 32.5 % lượng rau bina Nhật Bản được bán tại những chợ TT .Với 36 % diện tích quy hoạnh được bao trùm bởi rừng, Tokyo là nơi tăng trưởng sum sê của cây liễu sam và cây bách Nhật, đặc biệt quan trọng là những vùng nhiều núi như Akiruno, Ōme, Okutama, Hachiōji, Hinode, and Hinohara. Với việc giảm giá gỗ nguyên vật liệu, tăng giá thành sản xuất cộng thêm việc tăng trưởng rừng đã làm sụt giảm sản lượng gỗ ở Tokyo. Ngoài ra, phấn hoa, đặc biệt quan trọng là từ cryptomeria, là một chất gây dị ứng chính cho những TT dân số gần đó. Vịnh Tokyo đã từng là một nguồn cá chính. Hầu hết sản xuất cá của Tokyo đến từ những hòn hòn đảo ngoài khơi, ví dụ điển hình như Izu Ōshima và Hachijōjima. Cá ngừ vằn, nori và aji là một trong những mẫu sản phẩm thủy hải sản chính .Du lịch ở Tokyo cũng là một góp phần cho nền kinh tế tài chính. Năm 2006, 4,81 một triệu người quốc tế và 420 triệu chuyến thăm Nhật Bản đến Tokyo đã được thực thi ; giá trị kinh tế tài chính của những chuyến thăm này lên tới 9,4 nghìn tỷ yên theo Chính quyền thành phố Tokyo. Nhiều khách du lịch đến thăm những TT thành phố, shop và khu vui chơi khác nhau trên khắp những thành phố của những phường đặc biệt quan trọng của Tokyo ; đặc biệt quan trọng so với học viên trong những chuyến đi theo lớp, chuyến thăm Tháp Tokyo là một điều khó khăn vất vả. Các dịch vụ văn hóa truyền thống gồm có cả văn hóa truyền thống pop Nhật Bản xuất hiện khắp nơi và những Q. tương quan như Shibuya và Harajuku, những điểm thăm quan văn hóa truyền thống như TT anime Studio Ghibli, cũng như những kho lưu trữ bảo tàng như Bảo tàng Quốc gia Tokyo, nơi lưu giữ 37 % kho tàng tác phẩm thẩm mỹ và nghệ thuật vương quốc của quốc gia ( 87/233 ) .
Tháp Tokyo về đêmChợ cá Tsukiji ở Tokyo là chợ bán sỉ cá và món ăn hải sản lớn nhất quốc tế, và cũng là một trong những chợ bán sỉ thực phẩm lớn nhất dưới mọi hình thức. Chợ Tsukiji giữ vững truyền thống cuội nguồn của người nhiệm kỳ trước đó, chợ cá Nihonbashi, và ship hàng khoảng chừng 50.000 người mua và người bán mỗi ngày. Các nhà kinh doanh bán lẻ, hàng loạt người bán, nhà đấu giá và công dân liên tục đi chợ, tạo ra một quốc tế hỗn loạn có tổ chức triển khai duy nhất vẫn liên tục cung ứng cho thành phố và nguồn cung ứng thực phẩm sau hơn bốn thế kỷ. Nó đã chuyển sang Chợ Toyosu mới vào tháng 10 năm 2018 .
Đường cao tốc ShutoTokyo, với vai trò là TT của vùng đại đô thị Tokyo, là TT giao thông vận tải trong nước và quốc tế lớn nhất Nhật Bản với mạng lưới hệ thống giao thông vận tải đường tàu, đường đi bộ và đường không tăng trưởng tân tiến. Giao thông công cộng trong Tokyo gồm có hầu hết là mạng lưới hệ thống xe lửa và tàu điện ngầm bao quát được quản trị bởi nhiều nhà điều hành quản lý [ 33 ]. Xe buýt, xe lửa một ray và xe điện cũng đóng vai trò quan trọng trong việc lưu chuyển tại thành phố .Do hậu quả của cuộc chiến tranh quốc tế thứ hai, máy bay Nhật Bản bị cấm bay qua Tokyo. Do đó, Nhật Bản đã thiết kế xây dựng những trường bay bên ngoài Tokyo. Tại Ōta, một trong 23 khu đặc biệt quan trọng của Tokyo, trường bay quốc tế Tokyo ( Haneda ) ship hàng những chuyến bay trong nước. Ngoài Tokyo, trường bay quốc tế Narita nằm ở tỉnh Chiba, là nơi đón khách quốc tế. Hãng hàng không Nhật Bản Nhật Bản Airlines, cũng như All Nippon Airways có một Trụ sở tại trường bay này .Nhiều hòn đảo ở Tokyo cũng có trường bay như Hachijōjima ( trường bay Hachijojima ), Miyakejima ( trường bay Miyakejima ) và Izu Ōshima ( trường bay Oshima ) có những chuyến bay tới những trường bay ở Tokyo và quốc tế .Đường sắt là mô hình giao thông vận tải đa phần ở Tokyo, Tokyo có mạng lưới hệ thống đường tàu đô thị lớn nhất quốc tế. Công ty đường tàu Đông Nhật Bản điều hành quản lý mạng lưới hệ thống đường tàu lớn nhất của Tokyo, gồm có đường ray Yamanote chạy quanh khu TT thương mại của Tokyo. Hai tổ chức triển khai khác điều hành quản lý mạng lưới hệ thống tàu điện ngầm gồm : công ty tư nhân Tokyo Metro và Cục giao thông vận tải đô thị Tokyo thuộc cơ quan chính phủ. Những hãng vận tải đường bộ tư nhân và nhà nước quản lý những tuyến xe buýt, gồm có những dịch vụ địa phương, vùng và trong nước .Hệ thống đường cao tốc nối thủ đô hà nội tới những điểm khác trong vùng đại Tokyo, vùng Kantō và những hòn đảo Kyūshū và Shikoku. Để kiến thiết xây dựng chúng nhanh gọn trước Thế vận hội Mùa hè 1964, hầu hết được thiết kế xây dựng trên những con đường hiện có. Những phương tiện đi lại giao thông vận tải khác gồm có taxi hoạt động giải trí tại những khu đặc biệt quan trọng, thành phố và thôn. Những bến phà đường dài cũng Giao hàng tại những hòn đảo của Tokyo và chuyên chở hành khách và sản phẩm & hàng hóa tới những cảng trong nước và quốc tế .
Đại học Tokyo .Tokyo có nhiều trường ĐH, cao đẳng và những trường dạy nghề. Nhiều trường ĐH nổi tiếng nhất của Nhật Bản nằm ở Tokyo, gồm có Đại học Tokyo, Đại học Hitotsubashi, Đại học Công nghệ Tokyo, Đại học Waseda, Đại học Khoa học Tokyo và Đại học Keio. Một số trường ĐH vương quốc lớn nhất ở Tokyo là :

  • Đại học Hitotsubashi
  • Đại học Meiji
  • Viện nghiên cứu chính sách quốc gia
  • Đại học Ochanomizu
  • Đại học Tokyo Gakugei
  • Đại học Công nghệ Tokyo
  • Đại học Y và Nha khoa Tokyo
  • Đại học Nông nghiệp và Công nghệ Tokyo
  • Đại học Ngoại ngữ Tokyo
  • Đại học Khoa học và Công nghệ biển Tokyo
  • Đại học nghệ thuật Tokyo
  • Đại học điện tử
  • Đại học Tokyo

Chỉ có một trường ĐH công lập ngoài vương quốc : Đại học Thủ đô Tokyo. Ngoài ra còn có một vài trường ĐH nổi tiếng với những lớp học bằng tiếng Anh và giảng dạy tiếng Nhật, gồm có Trường Quản lý Đại học Globis, Đại học Christian Quốc tế, Đại học Sophia và Đại học Waseda .Tokyo cũng là trụ sở của Đại học Liên Hiệp Quốc .Điều hành công khai minh bạch những trường mẫu giáo, trường tiểu học ( năm 1 đến 6 ) và trường tiểu học ( 7 đến 9 ) được điều hành quản lý bởi những phường địa phương hoặc văn phòng thành phố. Các trường trung học công lập ở Tokyo được quản lý bởi Hội đồng giáo dục của chính quyền sở tại thành phố Tokyo và được gọi là ” Trường trung học Thành Phố Hà Nội “. Tokyo cũng có nhiều trường tư thục từ mẫu giáo đến trung học :

  • Trường quốc tế Aoba Nhật Bản
  • Trường Anh tại Tokyo
  • Trường giao lưu quốc tế Jingumae
  • Trường quốc tế K. Tokyo
  • Trường quốc tế Tokyo
  • Trường quốc tế Canada
  • Trường quốc tế Tokyo West
  • Trường quốc tế St. Mary’s
  • Trường quốc tế mới

Tamagawa Jōsui Hamura Akihabara và một khu giải trí nổi tiếng cho những người cuồng mộ anime, manga và game.Tokyo có rất nhiều kho lưu trữ bảo tàng. Riêng tại khu vui chơi giải trí công viên Ueno đã có 4 kho lưu trữ bảo tàng vương quốc gồm : Bảo tàng Quốc gia Tokyo, kho lưu trữ bảo tàng lớn nhất của Nhật Bản và chuyên về thẩm mỹ và nghệ thuật truyền thống cuội nguồn Nhật Bản ; Bảo tàng Quốc gia nghệ thuật và thẩm mỹ phương Tây ; Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại Quốc gia Tokyo, với những bộ sưu tập về thẩm mỹ và nghệ thuật Nhật Bản cũng như hơn 40,000 bộ phim của Nhật Bản và quốc tế. Ở vườn hoa Ueno cũng có Bảo tàng Khoa học Quốc gia và vườn thú công cộng. Các kho lưu trữ bảo tàng khác gồm có : Bảo tàng Nghệ thuật Nezu tại Aoyama ; Bảo tàng Edo-Tokyo tại Sumida dọc sông Sumida ở TT Tokyo và thư viện nghị viện vương quốc, Cơ quan tàng trữ vương quốc và Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại Quốc gia, nằm gần hoàng cung .
Ginza là khu mua sắm cao cấp nổi tiếng của Tokyo và là một trong những khu mua sắm sang trọng nhất trên thế giới.Tokyo có rất nhiều nhà hát cho nghệ thuật và thẩm mỹ trình diễn. Trong đó có những nhà hát tư nhân và nhà nước dành cho những mô hình nghệ thuật và thẩm mỹ truyền thống cuội nguồn của Nhật Bản như kịch Noh và Kabuki cũng như cho những thể loại kịch văn minh. Các dàn nhạc giao hưởng và những nhóm nhạc màn biểu diễn âm nhạc phương Tây và âm nhạc truyền thống cuội nguồn. Tokyo có rất nhiều nơi màn biểu diễn dành cho thể loại nhạc pop và rock với đủ những kích cỡ từ những câu lạc bộ nhỏ cho tới những khu lớn như Nippon Budokan. Có rất nhiều liên hoan diễn ra khắp Tokyo. Những liên hoan lớn phải kể đến Sannō tại đền Hie, Sanja tại đền Asakura và tiệc tùng Kanda tổ chức triển khai hai năm một lần. Thường niên, vào cuối ngày thứ bảy của tháng bảy, tại sông Sumida sẽ có màn màn biểu diễn pháo hoa lôi cuốn hơn một triệu người xem. Vào mùa hoa anh đào nở vào tháng tư, rất nhiều người tụ tập tại khu vui chơi giải trí công viên Ueno, khu vui chơi giải trí công viên Inokashira và vườn vương quốc Shinjuku Gyoen để tổ chức triển khai picnic dưới bóng cây anh đào .Nhiều tiệc tùng khác nhau diễn ra trên khắp Tokyo. Các sự kiện chính gồm có Sannou tại Đền Hie, Sanja tại Đền Asakusa và Lễ hội Kanda hai năm một lần. Cuối cùng có một cuộc diễu hành với phao được trang trí công phu và hàng ngàn người. Hàng năm vào thứ bảy ở đầu cuối của tháng 7, một màn pháo hoa khổng lồ trên sông Sumida lôi cuốn hơn một triệu người xem. Một khi hoa anh đào nở vào mùa xuân, nhiều dân cư tụ tập tại Công viên Ueno, Công viên Inokashira và Vườn Quốc gia Shinjuku Gyoen để dã ngoại dưới những bông hoa .Harajuku, một khu vực thuộc khu Shibuya, được biết đến trên toàn quốc tế với phong thái, thời trang và cosplay của giới trẻ Nhật Bản .Ẩm thực ở Tokyo được quốc tế hoan nghênh. Vào tháng 11 năm 2007, Michelin đã phát hành hướng dẫn tiên phong của họ về nhà hàng siêu thị tuyệt vời ở Tokyo, trao tổng số 191 sao, hoặc gấp đôi so với đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu gần nhất của Tokyo, Paris. Tính đến năm 2017, 227 nhà hàng quán ăn ở Tokyo đã được trao ( 92 ở Paris ). Mười hai cơ sở đã được trao tối đa ba sao ( Paris có 10 ), 54 nhận hai sao và 161 kiếm được một sao .
Thể thao tại Tokyo rất phong phú. Tokyo có hai đội bóng chày chuyên nghiệp là Yomiuri Giants ( sân nhà là Tokyo Dome ) và Yakult Swallows ( sân nhà là sân hoạt động Meiji-Jingu ). Thương Hội Sumo Nhật Bản có trụ sở tại Tokyo đặt tại nhà tranh tài Ryōgoku Kokugikan, nơi có 3 giải Sumo chính thức được tổ chức triển khai thường niên ( vào tháng giêng, tháng năm và tháng chín ). Những câu lạc bộ bóng đá ở Tokyo gồm có F.C. Tokyo và Tokyo Verdy, cả hai đều đang tranh tài ở J-League 1 và có chung sân nhà là sân hoạt động Ajinomoto tại Chōfu. Tokyo là thành phố đã tổ chức triển khai Thế vận hội Mùa hè 1964. Sân vận động vương quốc, được biết đến với tên là sân hoạt động Olympic Quốc gia ( Tokyo ) đã tổ chức triển khai 1 số ít sự kiện thể thao quốc tế, lúc bấy giờ nó đã được vận động và di chuyển sang nơi khác và xây mới. Là một thành phố có nhiều khu tranh tài thể thao đạt đẳng cấp và sang trọng quốc tế, Tokyo liên tục tổ chức triển khai những sự kiện thể thao trong nước và quốc tế như những giải đánh tennis, bơi, marathon, thể thao trình diễn kiểu Mỹ, judo, karate. Cung thể dục thể thao TT Tokyo, nằm ở Sendagaya, Shibuya, là khu phối hợp thể thao lớn gồm có nhiều hồ bơi, phòng tập và một nhà thi đấu trong nhà. Tokyo cũng sẽ lần lần thứ hai tổ chức triển khai Thế vận hội Mùa hè 2020 .

Tokyo trong văn hóa truyền thống đại chúng[sửa|sửa mã nguồn]

Với vai trò là một trung tâm dân số lớn nhất Nhật Bản và là nơi có trụ sở của những đài truyền hình lớn nhất nhất quốc gia, Tokyo thường xuyên được chọn làm bối cảnh cho những bộ phim Nhật Bản, show truyền hình, anime, manga. Trong thể loại kaiju (phim kinh dị), những thắng cảnh của Tokyo thường bị phá hủy bởi những con quái vật khổng lồ như Godzilla.

Một vài đạo diễn Hollywood đã chọn Tokyo là nơi quay phim cũng như bối cảnh của bộ phim. Một vài ví dụ cho những bộ phim thời hậu chiến là Tokyo Joe, My Geisha, tập phim You Only Live Twice trong loạt phim về James Bond; nhiều bộ phim nổi tiếng khác bao gồm Kill Bill, The Fast and the Furious: Tokyo DriffLost in Translation.

Tác giả Nhật Bản Haruki Murakami đã dựa trên 1 số ít tiểu thuyết của mình ở Tokyo ( gồm có cả Rừng Na Uy ), và hai cuốn tiểu thuyết tiên phong của David Mitchell, số 9 dream và Ghostwrrite đặc trưng của thành phố. Họa sĩ đương đại người Anh Carl Randall đã dành 10 năm sống ở Tokyo với tư cách là một nghệ sĩ, tạo ra một tác phẩm miêu tả những đường phố đông đúc và khoảng trống công cộng của thành phố này .
Kiến trúc ở Tokyo đã được hình thành phần lớn bởi lịch sử dân tộc của thành phố. Hai lần trong lịch sử vẻ vang thành phố đã bị hủy hoại chỉ còn lại những đống đổ nát : tiên phong trong trận động đất năm 1923 và sau đó là khi bị oanh tạc trong Thế Chiến II. Bởi vì điều này, cảnh sắc đô thị Tokyo gồm có hầu hết là kiến trúc văn minh và kiến trúc đương đại, và những tòa nhà cũ là rất khan hiếm. [ 34 ] Tokyo có nhiều nổi tiếng hình thức kiến trúc văn minh nổi tiếng gồm có ː Tokyo International Forum, Asahi Beer Hall, Mode Gakuen Cocoon Tower, NTT Docomo Yoyogi Building và Rainbow Bridge. Tokyo cũng có hai ngọn tháp đặc biệt quan trọng : Tháp Tokyo, và mới gần đây là Tokyo Skytree, ngọn tháp cao nhất ở Nhật và trên quốc tế, cũng là khu công trình kiến trúc cao thứ hai quốc tế chỉ sau Burj Khalifa của Dubai. [ 35 ]

Tokyo cũng có nhiều công viên và các khu vườn. Có bốn công viên quốc gia ở Tokyo, bao gồm có Vườn quốc gia Fuji-Hakone-Izu.

Thành phố kết nghĩa[sửa|sửa mã nguồn]

Tokyo có 12 thành phố và bang kết nghĩa : [ 36 ]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Tiền nhiệm
Heian-kyō
Thủ đô của Nhật Bản
1868–nay

Thủ đô hiện tại

5/5 - (1 vote)

Bài viết liên quan

Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments