Rối loạn nhân cách chống xã hội – Wikipedia tiếng Việt

Rối loạn nhân cách chống xã hội (tiếng Anh: Antisocial personality disorder, hay viết tắt là ASPD) là một trạng thái không bình thường của nhân cách biểu hiện chủ yếu bằng sự khó hoặc không thích ứng thường xuyên với các quy tắc đạo đức xã hội và pháp luật. Đây là một dạng trong nhóm bệnh rối loạn nhân cách. Không quá ngạc nhiên khi các nghiên cứu chỉ ra rằng rối loạn nhân cách chống xã hội có tỷ lệ cao ở tù nhân (những người thường có hành vi bạo lực), tương tự như vậy người lạm dụng rượu và các chất gây nghiện cũng được ghi nhận là có nhiều khả năng mắc hơn so với cộng đồng[1].

Trong suốt thế kỷ trước các nhà nghiên cứu và các bác sĩ lâm sàng đã sử dụng các nhiều thuật ngữ đa dạng để miêu tả ASPD chẳng hạn như bệnh xã hội (sociopathy), đạo đức suy đồi (moral insanity). Kraepelin và Schneider thì dùng từ bệnh nhân cách (psychopathy) để chỉ loại rối loạn này, tuy nhiên về sau thuật ngữ trên bị áp dụng một cách quá rộng rãi để chỉ tất cả các loại rối loạn nhân cách. Chính DSM (phiên bản II và III) đã biệt định tên như hiện nay: Rối loạn nhân cách chống xã hội. Các triệu chứng chính để chẩn đoán bệnh cũng thay đổi từ việc chú trọng đến sự suy giảm cảm xúc trong các mối quan hệ với mọi người đến việc tập trung vào các hành vi bên ngoài đặc biệt là các hành vi gây hấn và bốc đồng[1][2].

Yếu tố rủi ro tiềm ẩn[sửa|sửa mã nguồn]

Những rủi ro tiềm ẩn làm ngày càng tăng năng lực mắc bệnh gồm có [ 2 ] :

  • Gia đình không hòa thuận
  • Vắng bố
  • Bố quá nghiêm khắc nhưng mẹ lại quá nuông chiều
  • Bố mẹ bỏ rơi hoặc lạm dụng
  • Lớn lên trong môi trường xã hội bất ổn, nhiều tội phạm
  • Bố nghiện rượu hoặc/và có nhân cách chống xã hội, mẹ có nhân cách kịch tính và rối loạn phân ly
  • Ngoài các yếu tố môi trường nói trên, di truyền cũng là một nguyên nhân chính của căn bệnh này
  • Gây chết người và không chịu tội

Tiêu chuẩn chẩn đoán[sửa|sửa mã nguồn]

Chẩn đoán theo Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn tâm thần của Mỹ (DSM-IV)[2][3][4]:

A. Coi thường và xâm phạm quyền lợi của người khác, thường xuất hiện sớm từ khoảng 15 tuổi và có ít nhất 3 trong các biểu hiện dưới đây:

  1. Không có khả năng hòa nhập vào các chuẩn mực xã hội quy định các hành vi hợp pháp, thể hiện qua việc thường xuyên bị tạm giữ.
  2. Khuynh hướng lừa dối để lợi dụng hay chỉ để bỡn cợt (nói dối liên tục, xài tên giả, lừa đảo…).
  3. Xung động nhất thời, không có khả năng lường trước hậu quả.
  4. Gây hấn thường xuyên.
  5. Coi thường sự an toàn chính bản thân và người khác.
  6. Vô trách nhiệm toàn diện, không có khả năng duy trì bền bỉ một công việc hoặc không có uy tín về tiền bạc.
  7. Không hối hận, hoàn toàn lãnh đạm sau khi đã gây thương tổn đến người khác.

B Tuổi chẩn đoán ít nhất 18 tuổi.

C. Thường trước 15 tuổi đã có các rối loạn cư xử.

D. Không xuất hiện trong giai đoạn tiến triển của tâm thần phân liệt hoặc giai đoạn hưng cảm.

Chẩn đoán phân biệt[sửa|sửa mã nguồn]

Cần phân biệt ASPD với những bệnh sau bởi chúng có một số ít bộc lộ chung dễ gây nhầm lẫn [ 2 ] :

  • Hành vi đối kháng xã hội ở người trưởng thành: Có vài hành vi nhưng không đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn chẩn đoán.
  • Rối loạn liên quan tới ma túy: Thường thấy trong bối cảnh nghiện và lệ thuộc ma túy, cần thận trọng vì rối loạn nhân cách này thường đi kèm với nghiện chất.
  • Chậm phát triển tâm thần: Khiếm khuyết trí tuệ thường có hành vi chống xã hội. Nhân cách chống xã hội thì khác, họ có trí tuệ bình thường, ở một số trường hợp còn có trí tuệ cao.
  • Nhân cách ranh giới: Thường kèm theo khuynh hướng tự sát, tự hạ thấp bản thân, gắn bó quá mức.
  • Nhân cách ái kỷ: Tôn trọng pháp luật khi còn có lợi cho bản thân.

Dịch tễ học[sửa|sửa mã nguồn]

Dấu hiệu khởi phát của nhân cách chống xã hội mở màn từ trước tuổi 15, thường Open ở trẻ em gái ở quy trình tiến độ dậy thì và trẻ em trai ngay từ thời thơ ấu, tỷ suất cao ở nhóm có điều kiện kèm theo kinh tế-xã hội thấp. Theo DSM-IV ( phiên bản năm 1994 bởi Thương Hội Tâm thần Mỹ ) thì rối loạn nhân cách chống xã hội Open ở 3 % phái mạnh và 1 % nữ giới [ 3 ]. Căn bệnh này hoàn toàn có thể tìm thấy ở 75 % tù nhân [ 1 ]. Ngoài ra những trẻ mắc rối loạn tăng động giảm quan tâm và rối loạn cư xử là những đối tượng người tiêu dùng có rủi ro tiềm ẩn cao [ 2 ] .

Tiên lượng là rất xấu bởi vì thứ nhất, người mắc rối loạn này đi ngược hẳn với các quy tắc chung của xã hội do vậy thường bị bắt giam vì hành vi phạm tội, thứ hai là người bệnh không thấu hiểu chính rối loạn của mình[1]. Đa số họ được người khác gửi đến trị liệu chứ không phải do tự nguyện, có đến 70% bệnh nhân bỏ dở việc chữa trị[5]. Rối loạn tiến triển ngày càng nặng nếu tiếp tục sống trong môi trường không thuận lợi và thường có tỉ lệ tử vong cao do thanh toán lẫn nhau giữa các băng nhóm, do biến chứng của việc lạm dụng rượu, ma tuý, tai nạn hoặc tự sát. Ở một số người tình hình có cải thiện khi được điều trị các rối loạn đi kèm như nghiện ngập, một số khác đòi hỏi điều trị nội trú lâu dài hoặc quản lý tại cộng đồng[2]. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng những hành vi chống xã hội đến mức phạm tội thường bắt đầu giảm đi ở lứa tuổi 40, nhưng không biết nguyên nhân tại sao, có thể nó đã biến tướng thành các dạng rối loạn khác.

5/5 - (2 votes)

Bài viết liên quan

Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments