Hóa trị liệu – Wikipedia tiếng Việt

bệnh nhân được điều trị ung thư vú hóa trị liệu bằng docetaxel, găng tay và túi lạnh được đặt trên tay để giảm đau ở móng tay

Hóa trị liệu (tiếng Anh: Chemotherapy; viết tắt chemo) là một phương pháp điều trị ung thư sử dụng một hoặc nhiều thuốc kháng ung thư – gây độc tế bào. Đây là một phần của phác đồ trị liệu ung thư chuẩn. Hóa trị liệu có thể trị khỏi hẳn ung thư hoặc giảm bớt và kéo dài sự sống cho bệnh nhân.

Hóa trị liệu thường phối hợp với những giải pháp điều trị ung thư khác, như xạ trị, phẫu thuật, nhiệt trị. Các thuốc hóa trị cũng được sử dụng điều trị những bệnh khác, như viêm cứng khớp đốt sống, bệnh đa xơ cứng, bệnh Crohn, bệnh vẩy nến, psoriatic arthritis, systemic lupus erythematosus, viêm khớp dạng thấp, và bệnh xơ cứng bì .

Các thuốc hóa trị liệu tiêu diệt các tế bào sinh trưởng nhanh, đây là đặc tính điển hình của tế bào ung thư. Nhưng cũng vì vậy các thuốc này cũng gây hại đến các tế bào bình thường có chu kỳ sinh trưởng nhanh như: tế bào ở tủy xương, hệ tiêu hóa, nang tóc. Do đó gây ra các phản ứng phụ như: suy tủy (giảm sản xuất các tế bào máu), viêm niêm mạc (viêm trên đường tiêu hóa), và rụng tóc.

Các thuốc kháng ung thư thế hệ mới ( ví dụ, những kháng thể đơn dòng ) không gây độc tế bào ở tế bào thường, chúng ảnh hưởng tác động đến tiềm năng là những protein không bình thường và thiết yếu cho tăng trưởng của những tế bào ung thư. Các giải pháp điều trị này thường được xem trị liệu đích ( khác với những hóa trị liệu cũ ) và thường được sử dụng đi kèm với những chiêu thức điều trị truyền thống lịch sử trong pháp đồ điều trị ung thư .

Hóa trị liệu có thể sử dụng một thuốc/ lần (đơn hóa trị liệu) hoặc nhiều thuốc/ lần (Hóa trị liệu kết hợp hoặc đa hóa trị liệu). Hóa trị liệu sử dụng thuốc có thể chuyển thành dạng có hoạt tính gây độc tế bào dưới ánh sáng còn được gọi là quang hóa trị liệu.

Sidney Farber được xem là cha đẻ của hóa trị ung thư hiện đại.

Thuốc đầu tiên được sử dụng điều trị ung thư vào đầu thế kỷ 20, mặc dù ban đầu nó không được sử dụng cho mục đích này. khí mustard được sử dụng như là vũ khí hoá học trong thế chiến thứ I và được khám phá có khả năng chống tạo huyết.[1] Một hợp chất cấu trúc tương tự là nitrogen mustards được nghiên cứu thêm trong chiến tranh thế giới thứ II tại đại học Yale University.[2] chúng tiêu diệt các tế bào phát triển nhanh như tế bào bạch cầu,do đó nó có tác dụng tương tự trên tế bào ung thư.Do đó, tháng 12 năm 1942, một số bệnh nhân mắc lymphomas (ung thư tế bào máu) đưa thuốc vào cơ thể qua tĩnh mạch.[2]

[3]Hai DNA base that are link chéo bởi nitrogen mustard .
Alkylating là nhóm hóa trị liệu tiên phong còn được sử dụng. Nguồn gốc là dẫn chất từ khí mustard sử dụng trong cuộc chiến tranh, lúc bấy giờ có nhiều loại alkylating được sử dụng. [ 4 ] They are so named because of their ability to alkylate nhiều phân tử, gồm có protein, RNA và DNA .

Hóa trị không phải lúc nào cũng hiệu quả và ngay cả khi hữu ích, nó cũng có thể không tiêu diệt hoàn toàn ung thư. Trong một nghiên cứu về những người mới được chẩn đoán mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối không thể chữa khỏi, hơn 2/3 số người bị ung thư phổi và hơn 4/5 số người bị ung thư đại trực tràng vẫn tin rằng hóa trị có khả năng chữa khỏi bệnh ung thư của họ.[5]

Tuy nhiên, hóa trị làm xấu đi chất lượng cuộc sống của những bệnh nhân cận kề cái chết.[6][7][8] Vào năm 2008, cuộc điều tra của Cơ quan điều tra bí mật quốc gia về kết quả và tử vong của bệnh nhân, viết tắt là NCEPOD, đã điều tra hơn 600 trường hợp tử vong của người Anh trong vòng 30 ngày sau khi được hóa trị liệu như một phương pháp điều trị ung thư hoặc như một liệu pháp chăm sóc giảm nhẹ để giảm bớt các triệu chứng.[6] Kết quả cho thấy 43% bệnh nhân bị nhiễm độc đáng kể liên quan đến điều trị mặc dù đã được điều trị khác để giảm tác dụng phụ của hóa trị.

Thách thức trong việc phân phối những tiêu chuẩn đó là những bác sĩ thường không hề Dự kiến được bệnh nhân, ngay cả bệnh nhân ung thư quá trình cuối sẽ chết sớm bao lâu, và những bệnh nhân này hoàn toàn có thể muốn chiến đấu với khối u bằng mọi giải pháp y tế có sẵn ngay cả khi nó có tính năng phụ kinh khủng. Mặc dù hoàn toàn có thể vẫn chưa có đủ dẫn chứng để đổi khác những hướng dẫn lâm sàng, nhưng vẫn có nguyên do để những bác sĩ triển khai một cách tiếp cận thận trọng với hóa trị vào cuối đời và bàn luận thẳng thắn với bệnh nhân về những lựa chọn của họ sẽ không bỏ rơi bệnh nhân mắc bệnh tiến trình cuối và có nhiều cách để trợ giúp mà không phải là ‘ điều trị tích cực ‘ .

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

5/5 - (1 vote)
Banner-backlink-danaseo

Bài viết liên quan

Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments