Ngự sử đài, cơ quan giám sát và phản biện

Ngự sử đài, cơ quan giám sát và phản biện

Trong cơ cấu tổ chức quyền lực tối cao của những triều đại phong kiến xưa có một cơ quan đặc biệt quan trọng gọi là Ngự sử đài. Ngự sử đài là cơ quan chuyên làm việc làm giám sát ở triều đình, can gián nhà vua, đàn hặc những quan lại nhằm mục đích giữ gìn kỷ cương phép nước. Ngự sử đài được đặt ra lần tiên phong vào nămThiên Ứng Chính Bình thứ 19 ( 1250 ) dưới thời vua Trần Thái Tông. Phụ trách Ngự sử đài là những chức quan Ngự sử đại phu, Ngự sử trung tướng, Thị ngự sử, Giám sát ngự sử, Chủ thư thị ngự sử, Ngự sử trung tán. Sang đời Lê đặt thêm những chức Trung thừa, Phó trung thừa, Chủ bạ, Đô ngự sử, Phó đô ngự sử, Thiêm đô ngự sử .
Đến đời vua Lê Thánh Tông ( 1460 – 1497 ) trở về sau giảm bớt những chức, chỉ còn lại Đô ngự sử, Phó đô ngự sử, Thiêm đô ngự sử. Trong đó Đô Ngự sử đứng đầu Ngự sử đài có hàm chánh tam phẩm, Phó đô ngự sử có hàm chánh tứ phẩm, và Thiêm đô ngự sử có hàm chánh ngũ phẩm ( theo Lê triều quan chế ). Dưới ba chức này là những Giám sát ngự sử có hàm chánh cửu phẩm, đứng hàng sau cuối trong bậc thang phẩm hàm. Ở những địa phương có những Giám sát ngự sử những đạo ( như những tỉnh thời nay ) cũng có hàm cửu phẩm ( theo Lê triều quan chế )

Những viên quan được chọn vào làm ở Ngự sử đài là những người cương trực, thẳng thắn, dám nói thẳng, nói thật, nhìn thẳng vào sự thật. Chúng ta biết rằng, việc vạch ra cái sai, cái xấu, cái cần phê phán của các quan lại đồng liêu rất dễ gây thù, chuốc oán, nhất là đối với các viên quan lại có địa vị cao hơn mình, rất dễ gánh lấy hậu quả của sự đè nén, trù dập. Vạch cái sai của các quan còn thế, vạch cái sai của các bậc vua chúa quyền uy tối thượng thì còn nguy hiểm hơn nhiều, chẳng khác gì vuốt râu hùm. Vì nói thẳng, nói thật mà bị cách chức, bị đuổi về quê là chuyện không hiếm, bởi vì “ trung ngôn nghịch nhĩ”. Nhưng trách nhiệm của các vị quan làm việc ở Ngự sử đài là phải nói, phải phản biện. Trước những lời nói, việc làm, những quyết định vi hiến ở triều đình, các quan làm việc ở Ngự sử đài không thể im lặng, cho qua. Bởi nếu như thế thì chính các quan Ngự sử sẽ bị đàn hặc lại, vì không hoàn thành nhiệm vụ (vì anh ăn lương chỉ để đàn hặc). Vì vậy, cái “ghế” của quan Ngự sử thật khó “ngồi”. Làm việc ở Ngự sử đài có trách nhiệm lớn như thế nhưng người đứng đầu cũng chỉ có hàm Tam phẩm, chưa bằng một vị Thượng thư lục bộ ( Thượng thư có hàm Tòng nhị phẩm- Theo Lê triều quan chế).

Đô sát viện thời Nguyễn được chính thức thành lập năm 1832, dưới thời trị vì của vua Minh Mạng. Trước đó, thời vua Gia Long, năm 1804 chỉ mới đặt các chức quan phụ trách công tác giám sát tối cao là Đô ngự sử và Phó Đô ngự sử phụ trách ngự sử đài, tiền thân của Đô sát viện. Đến năm 1827 vua Minh Mạng đặt thêm các Cấp sự trung lục khoa và Giám sát ngự sử tại các đạo (các vùng địa phương). Đến năm 1832, Đô sát viện trở thành một cơ quan giám sát tối cao với đầy đủ các quy chế kiểm sát các cơ quan hành chính trung ương, nhờ các lục khoa giám sát lục bộ và kiểm sát các địa phương, là giám sát ngự sử các đạo. Đô sát viện, là một cơ quan hội đồng, cùng với Đại lý tự (cơ quan xét xử tối cao) và bộ Hình nằm trong Tam pháp ty, tức là hệ thống tư pháp của triều đình nhà Nguyễn. Trưởng quan Đô sát viện, cùng Trưởng quan Đại lý tự (Tự khanh), 6 Thượng thư lục bộ và Thông chính sứ ty hợp thành Cửu khanh của triều đình nhà Nguyễn.
Đứng đầu Đô sát viện là 4 vị đại thần giữ các chức vụ sau:

Tả Đô ngự sử và Hữu Đô ngự sử (tức là Trưởng quan Đô sát viện), hàm ngang với chức Thượng thư các bộ;
Tả phó Đô ngự sử và Hữu phó Đô ngự sử, hàm ngang với Tham tri các bộ.
Bên dưới bốn vị đại thần trên là Lục khoa và 16 vị Giám sát ngự sử 16 đạo. Các quan giám sát ngự sử các đạo hàm Chánh ngũ phẩm, gồm:
Đạo Kinh kỳ, giám sát kinh đô Thừa Thiên Huế.
Đạo Sơn Hưng Tuyên, giám sát ba tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang.
Đạo Lạng Bình, giám sát hai tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng.
Đạo Ninh Thái, giám sát hai tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên.
Đạo Hải An, giám sát hai tỉnh Hải Dương, Quảng Yên.
Đạo Định Yên, giám sát hai tỉnh Nam Đinh, Hưng Yên.
Đạo Hà Ninh, giám sát hai tỉnh Hà Nội, Ninh Bình.
Đạo Thanh Hóa, giám sát tỉnh Thanh Hóa.
Đạo An Tĩnh, giám sát hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh.
Đạo Bình Trị, giám sát hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị.
Đạo Nam Ngãi, giám sát hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Đạo Bình Phú, giám sát hai tỉnh Bình Định, Phú Yên.
Đạo Thuận Khánh, giám sát hai tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa.
Đạo Định Biên, giám sát hai tỉnh Gia Định, Biên Hòa.
Đạo Long Tường, giám sát hai tỉnh Vĩnh Long, Định Tường;.
Đạo An Hà, giám sát hai tỉnh An Giang, Hà Tiên.
Tại kinh thành, tất cả các bộ, nha ở cấp trung ương đều chịu sự giám sát của Lục khoa, gồm:
Lại khoa, kiểm sát bộ Lại và Hàn lâm viện;
Hộ khoa, kiểm sát bộ Hộ, phủ Nội vụ, Tào chính ty, Thương chính ty.
Lễ khoa, kiểm sát bộ Lễ, Thái thường tự, Quang lộc tự, Quốc tử giám, Khâm thiên giám.
Binh khoa, kiểm sát bộ Binh, Thái bộc tự, Kinh thành đề đốc, các kho vũ khí và thuốc sung.
Hình khoa, kiểm sát bộ Hình và Đại lý tự.
Công khoa, kiểm sát bộ Công, Vũ khố và Mộc thương.

Đứng đầu mỗi khoa là quan Cấp sự trung, điều hành công vụ của khoa đó. Các quan lại của các khoa, đạo hoạt động độc lập rất cao và ý kiến tấu sớ của họ có thể được gửi thẳng lên Hoàng đế mà không phải trình qua Trưởng quan phê duyệt. Ví dụ, khi vua Minh Mạng băng hà, để tỏ lòng hiếu nghĩa, vua Thiệu Trị tổ chức việc tang lễ quá dài, gây ảnh hưởng đến hoạt động thường nhật của dân chúng, quan giám sát ngự sử đạo Lạng Bình lúc đó là Doãn Khuê, dâng sớ trực tiếp can gián.
Ngoài việc giám sát thường xuyên của Đô sát viện, triều đình còn thường cử những đoàn thanh tra xuống các địa phương, tại những điểm nóng về kinh tế (vùng mới khai hoang), hoặc nơi vừa trải qua dịch bệnh, thiên tai, chiến tranh… giải quyết công việc tại chỗ, gọi là chế độ Kinh lược đại sứ. Nổi tiếng nhất là đoàn Kinh lược sứ của Thượng thư bộ Binh, Cơ mật viện đại thần Trương Đăng Quế, thanh tra toàn bộ 6 tỉnh Nam kỳ vào năm 1836, để lần đầu tiên thiết lập hệ thống sổ sách địa chính của lục tỉnh.

Khi thành lập Đô sát viện, vua Minh Mạng đã quy định nhiệm vụ của cơ quan này như sau:
… Trong số quan chức lớn bé, có ai lấn vượt ban thứ; nói năng ổn ào, uy nghi không nghiêm túc đều phải hặc. Hoàng thân quốc thích, các quan lớn nhỏ trong kinh hoặc ngoài trấn có việc gì không công bằng, không giữ phép, dối trá, bưng bít, chuyên quyền đều phải tham hặc.
Các quan trong kinh ngoài trấn có thực trạng là thanh hoặc liêm, tốt hoặc xấu đều cho phép phân biệt tâu lên các đại thần để cử và bổ dụng người và chương sớ các nha môn trong ngoài dâng lên hễ thấy không phải làm vì công tâm, đều phải hặc tâu.
Thi Hương, thi Hội nếu có sự ngấm ngầm chạy vạy đút lót, gửi gắm cũng phải hặc. Phàm các việc đã hặc tâu đều phải vạch rõ sự thực, không phải nghe hơi bắt bóng vì hiềm riêng mà làm bậy, bới chuyện… Nếu gặp những việc chậm trễ, trái phép, lẩm cẩm và những tệ hại do bọn nha lại gian xảo đổi trắng thay đen đều phải hặc rõ sự thực mà hặc
 

5/5 - (1 vote)

Bài viết liên quan

Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments