Reporter là gì bình luận về newspaper reporter là gì

http://www.4thcafe.com/letter-young-journalist/glossary/

Các thể loại trong nền báo chí Mỹ

Báo chí phương Tây, mà tiêu biểu vượt trội là báo chí truyền thông Mỹ, có mạng lưới hệ thống thể loại rất khác với Nước Ta Người ta không chia tác phẩm báo chí thành những nhóm như thông tấn hay chính luận mà phân biệt những tác phẩm viết ( writing ) thành hai nhóm là fiction ( hư cấu – thơ ca, tiểu thuyết, v.v … ) và nonfiction ( phi hư cấu – gồm có báo chí truyền thông, điều tra và nghiên cứu khoa học, v.v … ). Nhóm báo chí truyền thông ( journalism ) được chia nhỏ hơn theo tiêu chuẩn thực sự ( fact ) thành tin tức ( news – dựa trên những hard fact, tức thực sự khách quan như số liệu thống kê ), feature ( phóng sự – dựa trên những soft fact, tức thực sự khách quan đã được phóng viên báo chí và những nhân chứng lựa chọn một cách chủ quan như diễn đạt, so sánh, … ) và article ( phản hồi – những lập luận, nghiên cứu và phân tích của những chuyên viên / bình luận viên về một yếu tố / sự kiện nhất định ). Thể loại news lại được chia thành hard news và soft news. Tiêu chí để nhìn nhận hard ( cứng ) hay soft ( mềm ) ở đây là mức độ chăm sóc hay ảnh hưởng tác động của tin và do đó hoàn toàn có thể hiểu hard news là tin thời sự, còn soft news là tin về những nghành đời sống như ẩm thực ăn uống, thẩm mỹ và nghệ thuật, v.v … Thể loại feature – mà người Nước Ta vẫn gọi là phóng sự thực ra chỉ gói gọn trong những yếu tố đời sống ( được nhìn nhận là mềm về mức độ quan trọng và tính thời sự ) và trọn vẹn khác với kiểu phóng sự văn trong báo với tính hư cấu cao như của Nước Ta những năm đầu thế kỷ XX. Chân dung ( profile ) là một loại feature thông dụng. Cần chú rằng news-feature, mà trong sách này chúng tôi sẽ chuyển ngữ thành bài phản ánh, hoàn toàn có thể được hiểu tương tự với tin sâu hoặc phóng sự sự kiện của Nước Ta. Nó là sự lan rộng ra của news ( mà news thì luôn luôn mở màn từ một sự kiện ), có trách nhiệm phân phối thông tin không thiếu về sự kiện, vấn đáp khá đầy đủ 5W và 1H. Đây cũng là nguyên do để một số ít chuyên gia quan niệm rằng báo chí truyền thông tân tiến chỉ có news và feature. Họ ám chỉ báo chí truyền thông khai thác những thông tin thời sự và thông tin đời sống – phần phản hồi không do những phóng viên báo chí ( reporter ) thường thì đảm nhiệm mà được giao cho những chuyên viên trong một nghành nghề dịch vụ hẹp nào đó. Tuy tôn vinh thực sự và phi hư cấu, nền báo chí truyền thông Mỹ vẫn có một thể loại “ trộn lẫn ” hư cấu với phi hư cấu ; đó là narrative nonfiction ( còn gọi là creative nonfiction ) – chúng tôi tạm chuyển ngữ thành phi hư cấu phát minh sáng tạo. Người viết thể loại này được quyền sử dụng những thủ pháp của văn học vào bài báo để làm cho nội dung sinh động và hấp dẫn hơn. Dĩ nhiên, việc này phải bảo vệ không làm tổn hại tới đặc thù phi hư cấu của báo chí truyền thông. Các tác giả nổi tiếng thường chỉ dùng giải pháp hòn đảo trật tự thời hạn và đối thoại nội tâm ; văn phong của tác phẩm vẫn nguyên chất báo chí truyền thông với mục tiêu “ không dùng tính từ ”. Phức tạp nhất là thể loại immersion reporting / journalism mà chúng tôi tạm chuyển ngữ thành tự sự báo chí truyền thông ( hoặc báo chí truyền thông tự sự, tùy trường hợp ). Thể loại này được cho phép phóng viên báo chí khai thác những thưởng thức của một cá thể ( nhân vật chính ) và những quan điểm của riêng cá thể ấy. Tự truyện là một phần quan trọng của tự sự báo chí truyền thông .

Một số thuật ngữ báo chí

The Fourth Estate “Đẳng cấp thứ tư” là một cách gọi đùa báo giới. Nguồn gốc thuật ngữ này vẫn chưa thống nhất nhưng nó thường được cho là do Edmund Burke, một nghị sĩ Anh gốc Ireland, sáng tạo vào năm 1787 và dùng lần đầu trong một bài diễn thuyết trước Nghị viện Anh. Nó bắt nguồn từ hệ thống đẳng cấp của Vương quốc Anh, gồm Tăng Lữ (Lord Spiritual), Quý Tộc (Lord Temporal) và Thứ Dân (Commons). Ở Mỹ, người ta dùng thuật ngữ này với hàm ý báo chí là một lực lượng độc lập với chính quyền – nhà báo là một đẳng cấp riêng. Nó hoàn toàn trái ngược với cụm từ “quyền lực thứ tư” (the fourth branch), vốn được dùng để ám chỉ rằng báo chí phục vụ chính quyền. Op-ed columnist Op-ed là từ viết tắt cụm “opposite the editorial page”, có nghĩa là “mặt sau trang xã luận”. Thuật ngữ này xuất hiện vào đầu những năm 1920 khi các tờ báo Mỹ nhận ra rằng mặt sau trang xã luận là vị trí tốt cho các bài điểm sách, bình luận, ý kiến,… Mục này sau đó được mở rộng dần và Op-ed được dùng để chỉ các bài viết của một chuyên gia hay ký giả có tiếng nhưng không thuộc ban biên tập (nghĩa là quan điểm của người này không đại diện cho quan điểm của tờ báo). Trong sách này, chúng tôi tạm dịch Op-ed columnist là bình luận viên độc lập. Contributing editor Tương tự như Op-ed columnist, nhưng chức danh này chỉ có trong tạp chí và thường không tham gia vào việc biên tập bài vở, dù vẫn được gọi là editor. Trong sách này, chúng tôi tạm dịch contributing editor là biên tập viên cộng tác. Copy editor Một số tài liệu báo chí phương Tây ví von copy editor là “chốt chặn cuối cùng” của tờ báo. Người này có nhiệm vụ biên tập văn phong của bài báo, kiểm tra độ chính xác của ngôn từ trong bài và chỉnh sửa cách trình bày (trên trang báo) nếu cần. Chức danh này chỉ có trong báo in. Trong sách này, chúng tôi tạm dịch copy editor là biên tập viên ngôn ngữ. Editor (reporter/writer) at-large Từ at-large ở đây có nghĩa là không thuộc một phòng ban nào và không có nhiệm vụ cố định. Các biên tập viên hay phóng viên at-large được quyền theo dõi các đề tài mà họ quan tâm, không phải thông qua trưởng ban hay các biên tập viên khác. Tuy nhiên, họ vẫn là phóng viên/biên tập viên một tờ báo nào đó chứ không phải là người làm việc tự do (freelancer). Trong sách này, chúng tôi tạm dịch editor/reporter/writer at-large là biên tập viên/phóng viên/ký giả độc lập (xin hiểu là độc lập với ban biên tập). Rewriteman và Legman Để tăng tốc độ sản xuất tin/bài, nhiều tờ báo ở Mỹ có phóng viên chuyên ngồi ở tòa soạn và viết lại những gì mà phóng viên tới hiện trường thu thập được. Người ở tòa soạn (rewriteman – người viết lại) có trách nhiệm dẫn dắt, gợi ý cho người ở hiện trường (legman) trong khi người trực tiếp có mặt phải mô tả trung thực và chi tiết nhất những gì mà anh ta thu nhận được từ mọi giác quan. Vì Việt Nam không có thuật ngữ tương đương nên chúng tôi sẽ giữ nguyên dạng tiếng Anh. Punchline Thường được cho là xuất phát từ màn múa rối Punch và Judy, xuất hiện ở Anh từ thế kỷ XVII, với nhân vật chính là hai vợ chồng Punch – Judy. (line ở đây có nghĩa là lời nói) Thuật ngữ này hiện nay được dùng để chỉ các câu bình luận bông đùa. Photo-op Đôi lúc còn được viết là Photo-opp, viết tắt cụm từ Photograph Opportunity. Thuật ngữ này chỉ những cơ hội để có được hình ảnh gây ấn tượng tốt với công chúng. Đối với chính trị, đó thường là các buổi diễn thuyết, vận động tranh cử,… Trong sách này, chúng tôi sẽ giữ nguyên dạng tiếng Anh. Người đăng: Vu Thi Phuong Anh vào lúc 22:12

court reporter là gì

Gửi email bài đăng này BlogThis! Chia sẻ lên Twitter Chia sẻ lên Facebook Chia sẻ lên Pinterest 2 nhận xét: Unknown 18:39 5 tháng 9, 2018

Bài viết hay, mà nền đen, chữ xanh chói mắt khó đọc, nếu chữa lại được thì hay. Cảm ơn tác giả đóng góp kiến thức hay ho.

Trả lờiXóa Trả lời Trả lờiUnknown 01 : 20 12 tháng 1, 2021
The luminous blue characters against a black background has ripped the post most of its interesting information .
Trả lờiXóa

5/5 - (1 vote)
Banner-backlink-danaseo

Bài viết liên quan

Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments