(1) Aether là nguyên tố thứ năm trong hóa học giả kim và vật lý sơ khai. Đó là tên được đặt cho vật liệu được cho là lấp đầy vũ trụ bên ngoài quả cầu trên mặt đất. Niềm tin vào aether như một nguyên tố đã được các nhà giả kim thời Trung cổ, người Hy Lạp, Phật giáo, Ấn Độ giáo, Nhật Bản và Bon Tây Tạng nắm giữ. Người Babylon cổ đại tin rằng yếu tố thứ năm là bầu trời. Nguyên tố thứ năm trong Wu-Xing của Trung Quốc là kim loại chứ không phải là ate.
(2) Aether cũng được coi là phương tiện mà tiến sóng ánh sáng trong không gian 18 ngày và 19 ngày kỷ các nhà khoa học. Ete phát quang đã được đề xuất để giải thích khả năng truyền ánh sáng qua không gian trống rỗng. Thí nghiệm Michelson-Morley (MMX) đã khiến các nhà khoa học nhận ra rằng không có aether và ánh sáng tự lan truyền.
Bạn đang đọc: Aether là gì? Đây là ý nghĩa trong khoa học
Mục lục nội dung
Những điểm rút ra chính: Định nghĩa Aether trong Khoa học
- Mặc dù có một số định nghĩa về “aether”, nhưng chỉ có hai định nghĩa liên quan đến khoa học.
- Đầu tiên là aether được cho là chất lấp đầy không gian vô hình. Trong lịch sử ban đầu, chất này được cho là một nguyên tố.
- Định nghĩa thứ hai là aether phát sáng là môi trường mà ánh sáng truyền qua. Thí nghiệm Michelson-Morley năm 1887 chứng minh ánh sáng không cần môi trường để lan truyền.
- Trong vật lý hiện đại, aether thường được coi là chân không hoặc không gian ba chiều không có vật chất.
Thí nghiệm Michelson-Morley và Aether
Thí nghiệm MMX được thực thi tại Đại học Case Western Reserve lúc bấy giờ ở Cleveland, Ohio vào năm 1887 bởi Albert A. Michelson và Edward Morley. Thí nghiệm sử dụng giao thoa kế để so sánh vận tốc ánh sáng theo phương vuông góc. Mục đích của thí nghiệm là xác lập hoạt động tương đối của vật chất trải qua aether gió hoặc aether phát sáng. . Người ta tin rằng ánh sáng cần một phương tiện đi lại để vận động và di chuyển, tựa như như cách sóng âm thanh nhu yếu một phương tiện đi lại ( ví dụ : nước hoặc không khí ) để truyền. Vì người ta đã biết ánh sáng hoàn toàn có thể truyền trong chân không, nên người ta tin rằng chân không phải chứa đầy một chất gọi là aether. Vì Trái đất sẽ quay quanh Mặt trời trải qua aether, nên sẽ có một hoạt động tương đối giữa Trái đất và aether ( gió aether ). Do đó, vận tốc ánh sáng sẽ bị tác động ảnh hưởng bởi việc ánh sáng hoạt động theo hướng quỹ đạo Trái đất hay vuông góc với nó. Các tác dụng âm tính đã được công bố trong cùng năm và được theo dõi bằng những thí nghiệm tăng độ nhạy. Thí nghiệm MMX đã dẫn đến sự tăng trưởng của thuyết tương đối hẹp, thuyết không dựa trên bất kể ate nào cho sự Viral bức xạ điện từ. Thí nghiệm Michelson-Morley được coi là ” thí nghiệm thất bại ” nổi tiếng nhất .( 3 ) Từ aether hoặc ether hoàn toàn có thể được sử dụng để diễn đạt khoảng chừng khoảng trống trống. Trong tiếng Hy Lạp Homeric, từ aether dùng để chỉ khung trời trong hoặc không khí trong lành. Nó được cho là thực chất tinh khiết được những vị thần thở, trong khi con người cần không khí để thở. Trong cách sử dụng văn minh, aether chỉ đơn thuần là đề cập đến khoảng trống vô hình dung ( ví dụ : tôi đã đánh mất email của mình vào aether. )
Cách viết Thay thế: Æte, ête, ête phát sáng, ête phát sáng, ête gió, ête mang ánh sáng
Thường nhầm lẫn với: Aether không giống với chất hóa học, ete, là tên gọi của một nhóm hợp chất có chứa nhóm ete. Một nhóm ete bao gồm một nguyên tử oxy được kết nối với hai nhóm aryl hoặc nhóm alkyl.
Xem thêm: Chủ tịch Mesa Group: Từ bà chủ tiệm tạp hóa đến một trong 50 nữ đại gia ảnh hưởng nhất Việt Nam
Biểu tượng Aether trong Giả kim thuật
Không giống như nhiều ” nguyên tố ” giả kim, aether không có một ký hiệu thường được đồng ý. Thông thường, nó được màn biểu diễn bằng một vòng tròn đơn thuần .
Nguồn
- Sinh ra, Max (1964). Thuyết tương đối của Einstein. Ấn phẩm Dover. ISBN 978-0-486-60769-6.
- Duursma, Egbert (Ed.) (2015). Etherons được Ioan-Iovitz Popescu dự đoán vào năm 1982. Nền tảng xuất bản độc lập CreateSpace. ISBN 978-1511906371.
- Kostro, L. (1992). “Sơ lược về lịch sử của khái niệm ête tương đối tính của Einstein.” ở Jean Eisenstaedt; Anne J. Kox (eds.), Các nghiên cứu về lịch sử của thuyết tương đối rộng, 3. Boston-Basel-Berlin: Birkhäuser, trang 260–280. ISBN 978-0-8176-3479-7.
- Schaffner, Kenneth F. (1972). Học thuyết Aether thế kỷ 19. Oxford: Pergamon Press. ISBN 978-0-08-015674-3.
- Whittaker, Edmund Taylor (1910). Lịch sử của các lý thuyết về Aether và Điện (xuất bản lần 1). Dublin: Longman, Green và Co.
Source: https://mindovermetal.org
Category: Wiki công nghệ