Chủ nghĩa duy vật lịch sử – Wikipedia tiếng Việt

Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã hội của triết học Mác-Lênin, là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu đời sống xã hội và lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong ba bộ phận hợp thành triết học Marxist. Chủ nghĩa duy vật lịch sử lý giải sự tiến hóa của xã hội loài người bằng sự phát triển của trình độ sản xuất. Trình độ sản xuất thay đổi khiến quan hệ sản xuất cũng thay đổi dẫn đến những mối quan hệ xã hội thích ứng với những quan hệ sản xuất đó cùng với những tư tưởng nảy sinh ra từ những quan hệ xã hội đó cũng thay đổi kéo theo sự thay đổi hệ thống pháp lý và chính trị. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx trở thành phương pháp luận của nhiều nhà nghiên cứu trong các bộ môn như sử học, xã hội học…

Đối tượng điều tra và nghiên cứu[sửa|sửa mã nguồn]

Chủ nghĩa duy vật lịch sử dân tộc không nghiên cứu và điều tra những mặt riêng không liên quan gì đến nhau của hoạt động và sinh hoạt xã hội, mà điều tra và nghiên cứu hàng loạt xã hội như một thể thống nhất với toàn bộ những mặt, những quan hệ xã hội, những quy trình có liên hệ nội tại và tác động ảnh hưởng lẫn nhau của xã hội. Khác với những khoa học xã hội đơn cử, chủ nghĩa duy vật lịch sử dân tộc không nghiên cứu và điều tra những quy luật cục bộ, riêng không liên quan gì đến nhau, chi phối sự tăng trưởng của những quy trình về kinh tế tài chính, chính trị hay tư tưởng, mà nghiên cứu và điều tra những quy luật chung nhất thông dụng nhất của sự tăng trưởng xã hội .Chủ nghĩa duy vật lịch sử dân tộc điều tra và nghiên cứu xã hội với tư cách là một chỉnh thể thống nhất để vạch ra những nét chung của sự tăng trưởng xã hội, những động lực, những nguyên do cơ bản của sự chuyển biến từ một hình thái kinh tế tài chính – xã hội này sang một hình thái kinh tế tài chính – xã hội khác, mối liên hệ qua lại và sự nhờ vào lẫn nhau giữa những hiện tượng kỳ lạ khác nhau của đời sống xã hội : kinh tế tài chính, chính trị, tư tưởng …

Chủ nghĩa duy vật lịch sử vạch ra những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển xã hội, chỉ ra vị trí và vai trò của mỗi mặt của đời sống xã hội, trong hệ thống xã hội nói chung, vạch ra những nét cơ bản của các giai đoạn phát triển của xã hội loài người.

Nội dung cơ bản[sửa|sửa mã nguồn]

  • Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
  • Cốt lõi là học thuyết hình thái kinh tế-xã hội, theo đó, trong các quan hệ xã hội, các quan hệ sản xuất là cơ sở hiện thực của mỗi xã hội nhất định, cấu trúc hạ tầng, trên đó xây dựng lên kiến trúc thượng tầng: chính trị, pháp luật và các hình thái ý thức xã hội khác, với những thiết chế của chúng. Mỗi hệ thống quan hệ sản xuất của một xã hội nhất định, phụ thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất.
  • Các lực lượng sản xuất luôn luôn phát triển không ngừng, đến một giai đoạn nhất định sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời và đòi hỏi phải thay đổi các quan hệ sản xuất ấy bằng những quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi ấy được thực hiện bằng cách mạng xã hội.
  • Một khi cơ sở hạ tầng đã thay đổi, thì toàn bộ cấu trúc thượng tầng sớm muộn cũng thay đổi theo. Hình thái kinh tế – xã hội cũ được thay thế bằng một hình thái kinh tế – xã hội mới tiến bộ hơn. Như vậy, lịch sử loài người là lịch sử thay thế của những hình thái kinh tế – xã hội khác nhau.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử dân tộc nhằm mục đích phát hiện ra những quy luật chung nhất của sự hoạt động tăng trưởng của lịch sử vẻ vang, là nguyên do dẫn đến sự sửa chữa thay thế những hình thái kinh tế tài chính – xã hội thấp đến trình độ cao hơn, hoạt động theo hình xoáy ốc và đỉnh điểm của nó là xã hội cộng sản chủ nghĩa, một xã hội công minh, văn minh, văn minh .

5/5 - (1 vote)

Bài viết liên quan

Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments