Thần thoại – Wikipedia tiếng Việt

Thần thoại, hay còn được gọi là huyền thoại, là sáng tạo của trí tưởng tượng tập thể toàn dân, phản ánh khái quát hóa hiện thực dưới dạng những vị thần được nhân cách hóa hoặc những sinh thể có linh hồn[1], mà dù đặc biệt, phi thường đến mấy vẫn được đầu óc người nguyên thủy nghĩ và tin là hoàn toàn có thực.

Tuy thần thoại cổ xưa sống sót như những truyện kể về trần gian, nhưng nó không hẳn là một thể loại ngôn từ, mà là những ý niệm và hình tượng nhất định về quốc tế. Bên cạnh đó, cảm quan thần thoại cổ xưa nói chung không chỉ thể hiện bằng truyện kể mà còn thể hiện trong những hình thức khác như hành vi ( nghi lễ, lễ thức, điều răn dạy ), những bài ca, vũ điệu v.v.

Đặc điểm của thần thoại thể hiện rõ nhất trong văn hóa nguyên thủy, nơi mà vị trí của thần thoại trong tâm thức cộng đồng có thể coi tương đương với “văn hóa tinh thần” hay “khoa học” của thời cận, hiện đại.

Trong đời sống của những hội đồng người nguyên thủy, thần thoại cổ xưa là một mạng lưới hệ thống mà nhờ nó, con người tri giác và diễn đạt quốc tế bằng những hình tượng ( của mạng lưới hệ thống ấy ). Do đó, hoàn toàn có thể coi truyền thuyết thần thoại là ý thức nguyên hợp của xã hội nguyên thủy. Tiến trình lịch sử dân tộc về sau, dù đã phân loại truyền thuyết thần thoại thành những hình thái ý thức xã hội khác như tôn giáo, nghệ thuật và thẩm mỹ, văn học, khoa học, tư tưởng chính trị v.v., thì những hình thái ấy vẫn bảo lưu trong chúng hàng loạt quy mô thần thoại cổ xưa, được cơ cấu tổ chức, tái chế để đưa vào những cấu trúc mới .

Thần thoại học[sửa|sửa mã nguồn]

Trong khoa học nghiên cứu, thu thập và giải nghĩa thần thoại, thần thoại học, các nhà khoa học đã từng gặp những khó khăn nhất định khi không xác lập được giới hạn của các hệ thần thoại. Thường các giới hạn ấy được người ta gắn với việc trong tác phẩm có nói đến các sinh thể siêu nhiên (thần thánh, anh hùng, ma quỷ v.v.). Theo cách hiểu này, chỉ cần vạch ra trong tác phẩm có những tên tuổi và hình tượng của thần thoại (như thần thánh và các anh hùng trong các tác phẩm văn học cổ Huy Lạp, văn học trung-cận đại châu Âu). Bên cạnh đó, có thể sử dụng tiêu chuẩn về cấu trúc, do hầu hết phạm vi của thần thoại có chất liệu từ đời sống con người nhưng được lựa chọn và gán cho những ngữ nghĩa riêng biệt chỉ có trong văn cảnh thần thoại (như các bộ phận của con người: đầu, mắt, bộ phận sinh dục v.v.; các động vật: sư tử, rắn, đại bàng; các loài cây: sồi, đa, cau, gạo; các hình dạng ký hiệu: con số, vòng tròn, chữ thập, vành khuyên v.v.).

Trong những nỗ lực tìm về bản chất của thần thoại, học giả Đức E. Cassirer phân tích thần thoại như là “hình thức tượng trưng”[1] và cho rằng ở những giai đoạn phát triển nhất định của nhân loại, thần thoại là hệ thống phổ quát duy nhất mà bằng các thuật ngữ của nó người ta tri giác thế giới.[1] Tiếp nối tinh thần này, những nhà nghiên cứu Nga tập trung tìm hiểu chỉnh thể thế giới quan của thần thoại. Bên cạnh đó là xu hướng đặt thần thoại vào văn cảnh ứng xử của các nhóm người, khảo sát thần thoại như một hệ thống được mô hình hóa trong đầu óc các cá thể đã hợp thành nhóm.

Thần thoại và văn học[sửa|sửa mã nguồn]

Thần thoại khá thân thiện với văn học khi cả hai đều có tính hình tượng trong nội dung. Tuy vậy, truyền thuyết thần thoại mang tính hình tượng một cách vô ý thức, độc lạ với những sáng tác văn học. S. S. Averintzev cho rằng, sự khác nhau giữa thần thoại cổ xưa và văn học hoàn toàn có thể kể ra ở vài phương diện [ 1 ] : thứ nhất, truyền thuyết thần thoại là loại sản phẩm phát minh sáng tạo tập thể ở thời kỳ trong ý thức chưa hình thành sự phản tư ( reflexion ), trong khi đó văn học đã tách khỏi folklore là sự phản tư của chủ thể tác giả. Thứ hai, những hình tượng của thần thoại cổ xưa được ” đồ vật hóa “, chưa sử dụng những thủ pháp thẩm mỹ và nghệ thuật như ẩn dụ, phúng dụ hay những hình thức chuyển nghĩa khác của văn học. Thứ ba, văn học hướng tới những tiêu chuẩn nghệ thuật và thẩm mỹ mang tính tự trị, trong khi đó truyền thuyết thần thoại còn chưa biết đến việc tách khoanh vùng phạm vi thẩm mỹ và nghệ thuật ra khỏi cái khối những nguyên tố tự phát chưa phân lập của ý thức. Bởi vậy truyền thuyết thần thoại, với toàn bộ tính nguyên hợp tư tưởng của nó trong tư duy nguyên thủy, chẳng những là thi ca nguyên thủy mà còn là tôn giáo nguyên thủy, triết học nguyên thủy, khoa học nguyên thủy v.v.Có thể nói, văn học gắn bó mật thiết với thần thoại cổ xưa, không riêng gì về mặt nguồn gốc ( trải qua truyện cổ tích và sử thi dân gian ) mà còn về kiểu phản ánh thực tại ( tính hình tượng ). Chính vì thế, văn học về sau thường không từ bỏ những cơ sở truyền thuyết thần thoại. Văn học cổ đại, Phục hưng, lãng mạn, hiện thực đều sử dụng những hình mẫu, môtip thần thoại cổ xưa, thủ pháp thần thoại cổ xưa hóa, thậm chí còn cả kiểu sáng tác lịch sử một thời [ 1 ] ( chủ nghĩa lịch sử một thời, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo v.v. ). Một loạt motip văn học được xếp vào motip thần thoại cổ xưa và lan rộng ra đến cả những motip không thần bí, nhưng được xem là gắn với những mẫu gốc ( archétype ) của tư duy thần thoại cổ xưa. Dù vậy, văn học về nguyên tắc không phải là truyền thuyết thần thoại ; và những quy luật đặc trưng của văn học không phải chỉ là đem phối hợp với những mẫu gốc của truyền thuyết thần thoại .

  1. ^ a b c d e

    Mục từ Thần thoại, trong 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân biên soạn, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, H. 2003, trang 299-301.

5/5 - (1 vote)

Bài viết liên quan

Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments