Tuổi trẻ – Wikipedia tiếng Việt

thanh thiếu niên thường được coi là đồng nghĩa với tuổi trẻ.Một nhóm những cô gái học ĐH ở Hoa Kỳ, năm 1973. Thuật ngữthường được coi là đồng nghĩa tương quan với Các người trẻ tuổi trẻ mặc phục trang giản dị và đơn giản tham gia liên hoan nhạc rock Woodstock, Ba Lan, 2011

Tuổi trẻ là một khoảng thời gian trong cuộc sống nằm giữa thời thơ ấu và thời trưởng thành.[1][2] Nó gắn liền với vẻ ngoài, sự tươi mới, sức sống, tinh thần, v.v., đặc trưng của một người trẻ.[3] Không có độ tuổi cụ thể nào xác định thời gian của tuổi trẻ, cũng không có các hoạt động cụ thể nào đánh dấu sự kết thúc của tuổi trẻ.[4]

Tuổi trẻ là thời gian định hình sự độc lập của một cá nhân. Sự định hình này phụ thuộc vào bối cảnh văn hóa. Sự độc lập của một người trẻ là mức độ phụ thuộc của họ dựa vào gia đình về mặt tài chính và cảm xúc.[4]

Thuật ngữ và định nghĩa[sửa|sửa mã nguồn]

Top: Bottom: Women’s Volleyball team of a US university.Students of a U.S. university do an outdoor class, where they discuss topics while walking.Women’s Volleyball team of a US university.

Trên khắp thế giới, các thuật ngữ tiếng Anh youth, adolescent, teenager, kid, và young person,… được thay thế cho nhau, và thường có nghĩa giống nhau,[5] nhưng đôi khi được phân biệt. Youth có thể là thời gian cuộc sống khi một người còn trẻ. Thời gian này bao gồm thời thơ ấu và khoảng thời gian nằm giữa thơ ấu với tuổi trưởng thành.[6][7] Đối với một số mục đích sử dụng, chẳng hạn như thống kê việc làm, youth đôi khi cũng đề cập đến các cá nhân trong độ tuổi từ 14 đến 21.[8] Adolescence thì lại dùng để chỉ một độ tuổi cụ thể trong một giai đoạn phát triển cụ thể trong cuộc sống của một người, không giống như youth là một phạm trù xã hội.[4]

Liên Hợp Quốc định nghĩa tuổi trẻ (thanh niên) là những người trong độ tuổi từ 15 đến 24 với tất cả các số liệu thống kê của Liên Hợp Quốc dựa trên phạm vi này, Liên Hợp Quốc tuyên bố giáo dục là nguồn để thống kê. Liên Hợp Quốc cũng công nhận rằng điều này thay đổi mà không ảnh hưởng đến các nhóm tuổi khác được liệt kê bởi các quốc gia thành viên là 18-30 tuổi. Một sự khác biệt hữu ích trong chính Liên Hợp Quốc có thể được tạo ra giữa thanh thiếu niên (tức là những người trong độ tuổi từ 13 đến 19) và thanh niên (những người trong độ tuổi từ 18 đến 32). Trong khi tìm cách áp đặt một số thống nhất đối với các phương pháp thống kê, chính Liên Hợp Quốc nhận thức được mâu thuẫn giữa các phương pháp trong các đạo luật riêng của mình. Do đó theo định nghĩa độ tuổi 15-24 (được giới thiệu năm 1981), trẻ em được định nghĩa là những trẻ dưới 14 tuổi trong khi theo Công ước về Quyền trẻ em năm 1979, những trẻ dưới 18 tuổi được coi là trẻ em.[9] Liên Hợp Quốc cũng tuyên bố rằng họ nhận thức được rằng một số định nghĩa tồn tại cho thanh thiếu niên trong các thực thể của Liên Hợp Quốc như Môi trường sống của Thanh niên đưa ra độ tuổi 15-32 và Hiến chương Thanh niên Châu Phi đưa ra độ tuổi 15-35.

Mặc dù liên kết với các quá trình sinh học của sự phát triển và lão hóa, tuổi trẻ cũng được định nghĩa là một vị trí xã hội phản ánh ý nghĩa của các nền văn hóa và xã hội khác nhau dành cho các cá nhân giữa thời thơ ấu và tuổi trưởng thành. Bản thân thuật ngữ này khi được đề cập theo cách thức vị trí xã hội, có thể mơ hồ khi áp dụng cho một người ở độ tuổi lớn hơn với vị trí xã hội rất thấp; có khả năng khi vẫn phụ thuộc vào người giám hộ của họ.[10] Các học giả cho rằng các định nghĩa dựa trên tuổi tác không nhất quán giữa các nền văn hóa hoặc thời đại và do đó chính xác hơn là tập trung vào các quá trình xã hội trong quá trình chuyển sang độc lập trưởng thành để xác định tuổi trẻ.[11]

Tuổi trẻ là quy trình tiến độ thiết kế xây dựng khái niệm về bản thân. Khái niệm bản thân của tuổi trẻ bị tác động ảnh hưởng bởi những biến số như đồng nghiệp, lối sống, giới tính và văn hóa truyền thống. [ 12 ] Đó là thời hạn của đời sống của một người khi sự lựa chọn của họ có nhiều năng lực ảnh hưởng tác động đến tương lai của họ. [ 13 ]

Các định nghĩa khác[sửa|sửa mã nguồn]

Ở phần đông châu Phi cận Sahara, thuật ngữ ” tuổi trẻ ” có tương quan đến những người đàn ông trẻ từ 15 đến 30 hoặc 35 tuổi. Thanh niên ở Nigeria gồm có toàn bộ những thành viên của Cộng hòa Liên bang Nigeria ở độ tuổi 18-35. [ 14 ] Nhiều cô gái châu Phi thưởng thức tuổi trẻ như một sự xen kẽ ngắn ngủi giữa lúc mở màn dậy thì và kết hôn và làm mẹ. Nhưng ở những khu vực thành thị, phụ nữ nghèo thường được coi là có tuổi trẻ lâu hơn nhiều, ngay cả khi họ sinh con ngoài hôn nhân gia đình. Thay đổi về mặt văn hóa truyền thống, những khu công trình giới tính của người trẻ tuổi ở Châu Mỹ Latinh và Khu vực Đông Nam Á khác với ở châu Phi cận Sahara. Ở Nước Ta, ý niệm thông dụng về giới trẻ của những khu công trình xã hội chính trị cho cả hai giới trong độ tuổi từ 15 đến 35. [ 15 ]

Tại Brazil, thuật ngữ giới trẻ chỉ những người thuộc cả hai giới tính từ 15 đến 29 tuổi. Khung tuổi này phản ánh ảnh hưởng đối với luật pháp Brazil của các tổ chức quốc tế như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Nó cũng được định hình bởi khái niệm thanh thiếu niên đã bước vào cuộc sống hàng ngày ở Brazil thông qua một bài diễn văn về quyền trẻ em.[15]

Tổ chức liên chính phủ Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế định nghĩa tuổi trẻ là “những người từ 15 đến 29 tuổi”.[16][17]

Ngày 12 tháng 8 được Liên Hợp Quốc tuyên bố là Ngày Quốc tế Giới trẻ.

Quy định theo vương quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Tại Nước Ta, theo Luật Thanh niên 2005, người trẻ tuổi được pháp luật là công dân Nước Ta từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi. [ 18 ]

Tại Đức, quy định thanh niên (junge Volljährige) là “người 18 nhưng chưa 27 tuổi”, thiếu niên (Jugendliche) là “người 14 nhưng chưa đủ 18 tuổi”.[19]

Quyền của giới trẻ[sửa|sửa mã nguồn]

Quyền trẻ nhỏ gồm có toàn bộ những quyền thuộc về trẻ nhỏ. Khi lớn lên, họ được cấp những quyền mới ( như bỏ phiếu, đồng ý chấp thuận, lái xe, v.v. ) và những nghĩa vụ và trách nhiệm ( nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự, v.v. ). Có những số lượng giới hạn tối thiểu khác nhau về độ tuổi mà thanh thiếu niên không được tự do, độc lập hoặc có thẩm quyền về mặt pháp lý để đưa ra một số ít quyết định hành động hoặc hành vi. Một số số lượng giới hạn này là tuổi bầu cử, tuổi ứng cử, tuổi chấp thuận đồng ý, tuổi trưởng thành, tuổi chịu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự, tuổi uống rượu, tuổi lái xe, v.v. Sau khi tuổi trẻ đạt đến những số lượng giới hạn này, họ được tự do bầu cử, quan hệ tình dục, mua hoặc tiêu thụ đồ uống có cồn hoặc lái xe xe hơi, v.v.

Tuổi được bầu cử[sửa|sửa mã nguồn]

Tuổi bầu cử là độ tuổi tối thiểu được thiết lập theo luật mà một người phải đạt được để đủ điều kiện kèm theo bỏ phiếu trong một cuộc bầu cử công khai minh bạch. Thông thường, độ tuổi được đặt ở mức 18 tuổi ; tuy nhiên, độ tuổi thấp nhất là 16 và cao nhất là 21 sống sót ( xem list bên dưới ). Các nghiên cứu và điều tra cho thấy 21 % trong số toàn bộ những người 18 tuổi có kinh nghiệm tay nghề bỏ phiếu. Đây là một quyền quan trọng vì bằng cách bỏ phiếu, họ hoàn toàn có thể tương hỗ chính trị do chính họ lựa chọn và không riêng gì bởi những người thuộc thế hệ cũ .

Tuổi ứng cử[sửa|sửa mã nguồn]

Tuổi ứng cử là độ tuổi tối thiểu mà một người có thể đủ điều kiện hợp pháp để nắm giữ một số văn phòng chính phủ được bầu. Trong nhiều trường hợp, nó cũng xác định độ tuổi mà một người có thể đủ điều kiện tham gia cuộc bầu cử hoặc được đề cử.

Tuổi chấp thuận đồng ý[sửa|sửa mã nguồn]

Độ tuổi chấp thuận đồng ý là độ tuổi mà một người được coi là có thẩm quyền về mặt pháp lý để đồng ý chấp thuận với những hành vi tình dục, và do đó là độ tuổi tối thiểu của một người mà được phép tham gia hoạt động giải trí tình dục với người khác một cách hợp pháp. Khía cạnh phân biệt độ tuổi của luật chấp thuận đồng ý là người dưới độ tuổi tối thiểu được coi là nạn nhân và bạn tình của họ là người phạm tội .

Bảo vệ trẻ nhỏ[sửa|sửa mã nguồn]

Bảo vệ trẻ nhỏ là một hình thức bào chữa được gọi là cái cớ để các bị cáo nằm trong định nghĩa của “trẻ nhỏ” được miễn trừ khỏi trách nhiệm hình sự đối với hành động của họ, nếu tại thời điểm thích hợp, họ chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Điều này ngụ ý rằng trẻ em thiếu sự phán xét đi kèm với tuổi tác và kinh nghiệm để phải chịu trách nhiệm hình sự. Sau khi đạt đến độ tuổi ban đầu, có thể có các mức trách nhiệm được quy định theo độ tuổi và loại vi phạm.

Tuổi được cho phép uống rượu[sửa|sửa mã nguồn]

Độ tuổi uống rượu hợp pháp là độ tuổi mà một người có thể tiêu thụ hoặc mua đồ uống có cồn. Những luật này bao gồm một loạt các vấn đề và hành vi, nêu rõ rượu có thể được uống khi nào và ở đâu. Nồng độ rượu tối thiểu có thể được tiêu thụ hợp pháp có thể khác với nồng độ rượu có thể mua ở một số quốc gia. Các luật này khác nhau giữa các quốc gia khác nhau và nhiều luật có miễn trừ hoặc hoàn cảnh đặc biệt. Hầu hết các luật chỉ áp dụng cho việc uống rượu ở nơi công cộng, trong đó việc tiêu thụ rượu tại nhà hầu hết không được kiểm soát (ngoại lệ là Vương quốc Anh, nơi có độ tuổi hợp pháp tối thiểu là 5 tuổi đối với tiêu dùng có giám sát ở những nơi riêng tư). Một số quốc gia cũng có giới hạn độ tuổi khác nhau đối với các loại đồ uống có cồn khác nhau.[20]

Tuổi lái xe[sửa|sửa mã nguồn]

Tuổi lái xe là độ tuổi mà một người hoàn toàn có thể xin giấy phép lái xe. Các vương quốc có độ tuổi lái xe thấp nhất ( dưới 17 ) là Úc, Canada, El Salvador, Iceland, Israel, Estonia, Macedonia, Malaysia, New Zealand, Na Uy, Philippines, Nga, Ả Rập Saudi, Slovenia, Thụy Điển, Vương quốc Anh ( Đại lục ) và Hoa Kỳ. Tỉnh bang Canada của Canada và 1 số ít tiểu bang của Hoa Kỳ được cho phép tuổi lái xe thấp đến 14 tuổi. Nigeria có tuổi lái xe tối thiểu cao nhất quốc tế ở tuổi 23. Ở Ấn Độ, tuổi lái xe hợp pháp là 18 .

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

  • Phương tiện liên quan tới Youth tại Wikimedia Commons
  • “Youth”, BBC Radio 4 discussion with Tim Whitmarsh, Thomas Healy and Deborah Thom (In Our Time, Apr. 23, 2003)
5/5 - (1 vote)

Bài viết liên quan

Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments