Đánh giá tình hình ứng dụng CNTT ở các Bộ, tỉnh/thành năm 2016

Ngày 11/5/2017, Ban Điều hành tiến hành công tác làm việc ứng dụng CNTT trong hoạt động giải trí cơ quan nhà nước do Bộ TT&TT chủ trì đã có phiên họp tại TP. Hà Nội .

Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Thành Hưng đã chủ trì phiên họp .
Tại cuộc họp, Ban Điều hành đã trải qua Báo cáo nhìn nhận mức độ Công tác ứng dựng CNTT của những Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc nhà nước và những tỉnh, thành phố thường trực Trung ương năm 2016. Theo đó, Công tác ứng dụng CNTT và tăng trưởng Chính phủ điện tử đã được chỉ huy những Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc nhà nước và những tỉnh, thành phố thường trực Trung ương chăm sóc, tăng nhanh tiến hành trong thời hạn qua, từ công tác làm việc kiến thiết xây dựng kế hoạch, chủ trương đến công tác làm việc tiến hành và kiểm tra nhìn nhận, lôi cuốn và tương hỗ cho cán bộ chuyên trách CNTT. Kết quả ứng dụng CNTT đã góp thêm phần cải cách hành chính, nâng cao hiệu suất cao quản trị, quản lý của những cơ quan nhà nước ( CQNN ), phân phối thông tin và dịch vụ công trực tuyến Giao hàng người dân và doanh nghiệp tốt hơn .
Ông Phạm Văn Hải, Phó Cục trưởng Cục Tin học hóa, Bộ TT&TT cho biết năm 2016, công tác làm việc khảo sát, nhìn nhận mức độ ứng dụng CNTT của CQNN được triển khai so với những Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc nhà nước và những tỉnh, thành phố thường trực Trung ương. Mức độ tiến hành ứng dụng CNTT của những CQNN được nhìn nhận trên 6 nhóm tiêu chuẩn là : ( 1 ) Hạ tầng kỹ thuật CNTT ; ( 2 ) Triển khai Ứng dụng CNTT ; ( 3 ) Trang / Cổng thông tin điện tử ( Cung cấp, update thông tin ; Các công dụng tương hỗ trên trang / cổng thông tin điện tử ) ; ( 4 ) Cung cấp dịch vụ công trực tuyến ; ( 5 ) Cơ chế chủ trương và pháp luật thôi thúc ứng dụng CNTT và ( 6 ) Nguồn nhân lực cho ứng dụng CNTT .

Cụ thể, mức độ triển khai ứng dụng CNTT của các CQNN trên 6 tiêu chí gồm:
Về Hạ tầng kỹ thuật CNTT: Các Bộ ngành và địa phương đã trang bị tương đối đầy đủ máy tính cho các cán bộ, công chức để phục vụ việc xử lý công việc. Tại địa phương, khoảng cách về hạ tầng CNTT giữa các tỉnh, thành phố lớn và các tỉnh còn khó khăn đã giảm mạnh. Mặc dù vậy tại một số tỉnh vùng miền núi vẫn cần được quan tâm đầu tư thêm về hạ tầng như Sơn La, Lai Châu,…
Việc xây dựng mạng diện rộng (WAN) và kết nối các cơ quan vào mạng WAN tại các Bộ, ngành và địa phương ngày càng cao, tuy nhiên vẫn cần tiếp tục được đầu tư, đẩy mạnh để tạo điều kiện cho việc trao đổi, chia sẻ thông tin giữa các CQNN được thuận lợi và nâng cao khả năng bảo vệ an toàn cho việc trao đổi thông tin.

Triển khai ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan: Tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ: Công tác triển khai ứng dụng công CNTT ngày càng mang lại hiệu quả cho công tác quản lý, điều hành. Các cơ quan đều sử dụng thường xuyên và hiệu quả các ứng dụng cơ bản để phục vụ công việc quản lý và điều hành của cơ quan. Ứng dụng quản lý văn bản và điều hành đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của lãnh đạo, rút ngắn thời gian trao đổi hồ sơ công việc của cơ quan và giữa các đơn vị.

Tại những tỉnh, thành phố thường trực Trung ương : Các tỉnh đứng vị trí số 1 về việc ứng dụng CNTT trong hoạt động giải trí của cơ quan vẫn thuộc về những thành phố lớn như Thành Phố Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, TP. Hà Nội. Tuy nhiên, vẫn có những tỉnh vùng xa, vùng miền núi tiến hành tốt nội dung này, nổi bật như Tỉnh Lào Cai, Đồng Tháp, Cà Mau, …
Vẫn còn có sự chênh lệch lớn về mức độ ứng dụng CNTT giữa những tỉnh đứng vị trí số 1 và những tỉnh phía dưới. Số lượng tỉnh được nhìn nhận ở mức độ trung bình vẫn cao. Các tỉnh có mức độ ứng dụng CNTT thấp vẫn tập trung chuyên sâu tại những tỉnh còn khó khăn vất vả .

Trang/Cổng thông tin điện tử: Hiện nay, trang/cổng thông tin điện tử của các CQNN đã trở thành một trong các kênh cung cấp thông tin và giao tiếp chính giữa cơ quan với người dân và doanh nghiệp (DN). Các Bộ, ngành và địa phương càng ngày càng cung cấp nhiều thông tin, số liệu về hoạt động của cơ quan lên Website/Portal và cập nhật kịp thời. Điều này đã góp phần nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của CQNN. Từng bước tạo tiền đề cho việc đẩy mạnh sự tham gia của người dân vào hoạt động của CQNN thông qua việc CQNN cung cấp thông tin, có giải trình, người dân có đầy đủ thông tin từ đó thúc đẩy việc phản biện, hiến kế cho CQNN.

Việc phân phối rất đầy đủ những chủ trương, chủ trương của nhà nước lên Website / Portal đã giúp người dân và Doanh Nghiệp thuận tiện chớp lấy được những chủ trương, chủ trương mới của nhà nước cũng như những xu thế chủ trương mới dự kiến phát hành ( trải qua mục Xin quan điểm dự thảo văn bản trên Website / Portal của những Bộ, ngành, địa phương ). Tuy nhiên, việc phân phối thông tin về dự án Bất Động Sản, khuôn khổ góp vốn đầu tư, thông tin thống kê vẫn còn nhiều hạn chế, đây là nội dung cần chú ý quan tâm tăng nhanh để hướng tới phân phối tài liệu Open nhà nước theo xu thế chung của quốc tế .

Cung cấp dịch vụ công trực tuyến: Với quyết tâm của Chính phủ trong việc thúc đẩy CPĐT qua việc phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN giai đoạn 2016-2020 (Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ) và Nghị quyết về CPĐT (Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ), trong năm 2016, số lượng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 được các cơ quan cung cấp ngày càng tăng.

Các Bộ tiến hành dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 hiệu suất cao cao ( có hàng trăm nghìn đến hàng triệu hồ sơ được xử lý trực tuyến ) là Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Nước Ta, Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ TT&TT, Bộ Tư pháp và Bảo hiểm Xã hội Nước Ta. Các tỉnh, thành phố có nhiều hồ sơ được xử lý trực tuyến là TP. TP.HN, An Giang, TP. Đà Nẵng, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Tiền Giang. Thông qua dịch vụ công trực tuyến, người dân và Doanh Nghiệp đã giảm được nhiều thời hạn, thuận tiện hơn khi triển khai những thủ tục hành chính với những cơ quan nhà nước .

Xếp hạng theo số lượng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 được phân phối tại những Bộ, cơ quan ngang Bộ năm 2016
Tuy nhiên, lúc bấy giờ còn có dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 tại nhiều địa phương có hiệu suất cao chưa cao, chưa có hồ sơ trực tuyến hoặc số lượng hồ sơ trực tuyến còn thấp. Nhiều dịch vụ còn tiến hành riêng không liên quan gì đến nhau, chưa đồng điệu dẫn đến trùng lặp, khó có năng lực liên kết, san sẻ, sử dụng lại thông tin. Điều này làm cho việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến của người dân chưa thật sự thuận tiện và là một trong những nguyên do làm giảm sự hiệu suất cao của dịch vụ .

Cơ chế chính sách và quy định thúc đẩy ứng dụng CNTT: Việc xây dựng cơ chế chính sách thúc đẩy ứng dụng CNTT đã được các cơ quan quan tâm hơn. Ngoài việc định kỳ xây dựng kế hoạch ứng dụng CNTT hàng năm, các Bộ ngành và địa phương đều đã ban hành nhiều chính sách khác để thúc đẩy công tác ứng dụng CNTT như chính sách về thu hút nguồn nhân lực CNTT, chính sách gắn ứng dụng CNTT với cải cách hành chính và những quy định cụ thể cho việc sử dụng các hệ thống ứng dụng như quy định về sử dụng thư điện tử, sử dụng hệ thống quản lý văn bản và điều hành, …

Nguồn nhân lực cho ứng dụng CNTT: Trên cả nước, việc các cán bộ, công chức, viên chức sử dụng máy tính để giải quyết công việc đã trở thành thường xuyên hơn. Tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ: nguồn nhân lực đều đạt mức khá và tốt. Tại địa phương, trên 90% các cơ quan chuyên môn (Sở, ban, ngành) và Ủy ban nhân dân các quận, huyện đã có cán bộ chuyên trách CNTT. Các tỉnh, thành phố đã chú ý tới việc thu hút cán bộ chuyên trách CNTT, có 17/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã có quy định về chế độ ưu đãi đối với cán bộ chuyên trách CNTT. Lượng cán bộ chuyên trách CNTT trung bình tại các cơ quan của tỉnh (Sở, UBND, cấp quận, huyện) là 2,84 người/cơ quan. Phần lớn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã định kỳ tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo, về CNTT cho cán bộ.

Toàn cảnh phiên họp
Cũng tại cuộc họp, ông Nguyễn Thành Phúc, Cục trưởng Cục Tin học hóa, Phó trưởng Ban Điều hành cho biết năm nay, Nghị quyết số 36 a / NQ-CP ngày 14/10/2015 của nhà nước về CPĐT đã làm tăng dịch vụ công trực tuyến. Đã có một số ít cơ quan nổi bật phân phối hiệu suất cao dịch vụ công trực tuyến là Bộ Tài chính có 21 triệu hồ sơ trực tuyến, Bảo hiểm Xã hội Nước Ta 28 triệu hồ sơ. Các tỉnh thì có số hồ sơ thấp hơn nhưng cũng rất đáng khuyến khích .

Tuy nhiên, ông Phúc cũng cho biết có một số địa phương có số lượng dịch vụ công trực tuyến cao nhưng không có nhiều hồ sơ trực tuyến, thậm chí là không có. Có khoảng 12 tỉnh có được hơn 1000 hồ sơ hơn 1 năm. Theo đó, cần “quan tâm đến hiệu quả chứ không phải số lượng dịch vụ”. Trong chỉ tiêu chấm điểm cải cách hành chính giai đoạn 2016 – 2020 do Bộ Nội vụ chủ trì, Cục Tin học hóa sẽ đề nghị Bộ Nội vụ tính hồ sơ  trực tuyến, chứ không tính số lượng dịch vụ để quan tâm chất lượng.

Một yếu tố nữa được ông Phúc nêu là liên kết san sẻ tài liệu cần được chăm sóc trong những năm tới và phải rất quyết tâm thì mới có tác dụng. Bộ TT&TT đã có chủ trương tăng cường quản trị nhà nước về CSDL vương quốc ưu tiên tiến hành trong đó có nhiều giải pháp hành chính, pháp lý, thúc ép kiểm tra để tăng nhanh và khai thác cơ sở tài liệu. Một thông tư liên kết những mạng lưới hệ thống thông tin của những Bộ ngành và những CSDL vương quốc cũng đang được dự thảo để trong quy trình tiến hành kiến thiết xây dựng những đơn vị chức năng phải lưu tâm về tiêu chuẩn kỹ thuật, để bảo vệ sau này hoàn toàn có thể liên kết CSDL .
Kết luận tại buổi thao tác, Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Thành Hưng đã chỉ huy Ban Điều hành tiến hành kiểm tra tình hình ứng dụng CNTT năm 2017 tại một số ít tỉnh còn hạn chế trong ứng dụng CNTT .

5/5 - (1 vote)

Bài viết liên quan

Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments