Bài viết được viết bởi ThS. Lê Thị Na – Bác sĩ Huyết học – Khoa Xét nghiệm – Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City
Bạn đang đọc: Ý nghĩa lâm sàng xét nghiệm cầm máu, đông máu
Đông máu có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng của con người. Bởi vậy, khi cơ thể có sự bất thường giữa các yếu tố đông máu và chống đông máu, nếu không được phát hiện sớm và có hướng điều trị kịp thời thì người bệnh sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm. Xét nghiệm chức năng đông máu sẽ giúp bác sĩ phát hiện các chất bất thường cầm máu, đông máu.
Máu gồm hai thành phần: tế bào và huyết tương. Tế bào máu gồm hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Huyết tương gồm các yếu tố đông máu, kháng thể, nội tiết tố, protein, muối khoáng và nước.
Trong điều kiện sinh lý (bình thường), đông cầm máu bảo vệ cơ thể do làm cho máu không chảy ra ngoài mạch máu, không tắc mạch do đông máu, là một quá trình tương tác sinh lý phức tạp, kết quả cuối cùng là tạo ra “cục” máu đông. Khi thành mạch máu bị tổn thương, máu được cầm nhờ kết dính tiểu cầu (ban đầu) và/hoặc máu đông tại chỗ thành mạch tổn thương.
Quá trình cầm máu, đông máu diễn ra nhờ nhiều yếu tố chức năng, bao gồm hai thành phần là tế bào tiểu cầu và các yếu tố đông máu trong huyết tương. Rối loạn đông máu có thể làm tăng nguy cơ chảy máu và/hoặc tạo cục máu đông và huyết khối.
Ngay sau khi “ cục ” máu đông được tạo thành làm ngừng quy trình chảy máu thì quy trình tan ( một phần ) “ cục ” máu đông lại diễn ra để trả lại sự thông thoáng cho lòng mạch, tránh rủi ro tiềm ẩn tắc mạch .
Mục lục nội dung
1. Giai đoạn cầm máu ban đầu
Hoạt động cầm máu được kích hoạt ngay khi có tổn thương thành mạch máu làm thể hiện lớp collagen của thành mạch ( thông thường bị che lấp bởi những tế bào nội mạc ). Các thụ thể glycoprotein Ia / IIa mặt phẳng màng tiểu cầu gắn đặc hiệu với collagen, sau đó được “ gia cố ” bởi một protein ( yếu tố von Willebrand – vWF ) tạo những link giữa glycoprotein Ib / IX / V tiểu cầu với những sợi collagen .
Các tiểu cầu gắn collagen được hoạt hóa, thông qua các chất tiết gây hoạt hóa các tiểu cầu khác. Tiểu cầu hoạt hóa thay đổi hình dạng, bộc lộ bề mặt phospholipid cần cho sự bám dính của các yếu tố đông máu. Fibrinogen nối kết các tiểu cầu gần nhau bằng cách tạo ra các liên kết.
2. Giai đoạn đông máu huyết tương
Quá trình hoạt hóa các yếu tố đông máu tạo ra “cục” máu đông bao gồm hai con đường, kích hoạt qua tiếp xúc (con đường nội sinh) và kích hoạt bởi yếu tố mô (con đường ngoại sinh) nhưng kết quả đều dẫn tới sự hình thành sợi huyết tạo “cục” máu đông.
3. Giai đoạn tiêu sợi huyết
Mục đích cơ bản của quy trình tiêu sợi huyết là trả lại sự thông thoáng cho lòng mạch máu có chứa “ cục ” máu đông. Enzyme chính của quy trình này ( plasmin ) được điều hòa bởi những yếu tố kích thích hoạt hóa và ức chế hoạt động giải trí nhằm mục đích tiêu một phần “ cục ” máu đông .
4. Ý nghĩa lâm sàng xét nghiệm chức năng đông máu, cầm máu
Source: https://mindovermetal.org
Category: Ứng dụng hay