Lập trình máy tính – Wikipedia tiếng Việt

” lập trình ” đổi hướng tới đây. Đối với những định nghĩa khác, xem lập trình ( xu thế )

Lập trình máy tính hay lập chương trình máy tính thường gọi tắt là lập trình (tiếng Anh: Computer programming, thường gọi tắt là programming) là việc lập ra chương trình làm việc cho máy có bộ xử lý, nói riêng là máy tính, để thực thi nhiệm vụ xử lý thông tin nào đó. Chương trình này gồm dãy các chỉ thị (hay lệnh) hợp lý để máy thực hiện theo trình tự thời gian [1].

Lập trình phải triển khai cho toàn bộ những mạng lưới hệ thống giải quyết và xử lý thông tin, từ những dàn máy điện toán lớn, máy tính cá thể ( PC ), đến những chip tinh chỉnh và điều khiển lập trình được trong những khối tinh chỉnh và điều khiển thiết bị những loại như trong máy đo đạc nghiên cứu và phân tích, vũ khí có tinh chỉnh và điều khiển, máy giặt, lò vi sóng, … và trong những thiết bị ngoại vi của máy tính như chip tinh chỉnh và điều khiển ở card màn hình hiển thị, cổng tiếp xúc, …

Dạng chương trình duy nhất mà máy tính có thể thực thi trực tiếp là ngôn ngữ máy hay mã máy, có dạng dãy các số nhị phân[2]. Lập trình trực tiếp ở dạng mã máy là công việc tốn sức, khó kiểm tra và lệ thuộc phần cứng cụ thể. Vì thế giới lập trình phát triển ra các ngôn ngữ lập trình với hệ thống ký hiệu, từ khóa và cú pháp cụ thể để lập trình viên dễ viết mã nguồn ở dạng văn bản mà không quá lệ thuộc vào phần cứng, sau đó dịch (Compile) ra mã máy.

Ngày nay lập trình ứng dụng trên các máy điện toán được hỗ trợ bằng các thư viện, khả năng liên kết mã phát sinh từ các ngôn ngữ khác nhau, và đặc biệt là sử dụng biểu tượng trực quan (visual) cho lập trình. Trong kỹ thuật điện toán việc lập ra bộ chương trình thường được gọi là phát triển phần mềm. Lập trình có các thành tố nghệ thuật, khoa học, toán học, và kỹ nghệ [1].

Các ngôn từ lập trình[sửa|sửa mã nguồn]

Dạng chương trình duy nhất mà máy tính hoàn toàn có thể thực thi trực tiếp là ngôn từ máy hay mã máy. Nó có dạng dãy những số nhị phân, thường được ghép nhóm thành byte 8 bit cho những hệ giải quyết và xử lý 8/16/32 / 64 bit [ note 1 ]. Nội dung byte thường màn biểu diễn bằng đôi số hex. Để có được bộ mã này ngày này người ta dùng ngôn từ lập trình để viết ra chương trình ở dạng văn bản và dùng trình dịch để chuyển sang mã máy [ 3 ] .

Khi kỹ thuật điện toán ra đời chưa có ngôn ngữ lập trình dạng đại diện nào, thì phải lập trình trực tiếp bằng mã máy. Dãy byte viết ra được đục lỗ lên phiếu đục lỗ (punched card) và nhập qua máy đọc phiếu tới máy tính [4]. Sau đó chương trình có thể được ghi vào băng/đĩa từ để sau này nhập nhanh vào máy tính. Ngôn ngữ máy được gọi là “ngôn ngữ lập trình thế hệ 1” (1GL, first-generation programming languages) [5]. Lúc đó có nhiều hãng sản xuất máy tính và mã máy chưa hoàn toàn thống nhất, nên lập trình gắn liền với máy của hãng.

Sau đó các mã lệnh được thay thế bằng các tên gợi nhớ và trình được lập ở dạng văn bản (text) rồi dịch sang mã máy. Hợp ngữ (assembly languages) ra đời, là “ngôn ngữ lập trình thế hệ 2” (2GL, second-generation programming languages). Lập trình thuận lợi hơn, khi dịch có thể liên kết với thư viện chương trình con ở cả dạng macro (đoạn chưa dịch) và lẫn mã đã dịch.

Dẫu vậy người lập trình phải nắm chắc về hoạt động của hệ thống xử lý, về các thanh ghi (register), con trỏ (pointer) và vai trò của chúng thì mới tránh được lỗi. Lúc này bắt đầu có sự thống nhất quốc tế về các tập lệnh cần thiết trong kỹ thuật điện toán.

Trong kỹ thuật điện toán hợp ngữ hiện được dùng là ngôn từ bậc thấp ( low-level programming languages ) để điều khiển và tinh chỉnh ngôn từ bậc cao thực thi truy nhập trực tiếp phần cứng đơn cử trong việc lập trình mạng lưới hệ thống, hoặc định tạo những hiệu ứng đặc biệt quan trọng cho chương trình của mình .Hợp ngữ hiện là phương tiện đi lại lập trình những vi điều khiển và tinh chỉnh trong bảng / khối điều khiển và tinh chỉnh thiết bị điện tử những loại, từ những máy đo, vũ khí, thiết bị dân số như máy giặt, lò vi sóng, … Bảng lệnh của vi điều khiển và tinh chỉnh này khác với của máy điện toán, nên hợp ngữ vi tinh chỉnh và điều khiển cũng khác, và đơn thuần hơn .

Lập trình mã máy và hợp ngữ cho ra chương trình chạy nhanh nhất trên cùng máy tính, vì nó chứa rất ít chỉ thị thừa hay chỉ thị rác, và giảm lượng mã nhờ việc đặt giá trị các thanh ghi được làm tắt. Các ngôn ngữ bậc cao khi dịch phải bố trí nhiều chỉ thị máy đảm bảo tính khái quát cao nhất, cùng với những câu lệnh thừa của người lập trình mà khi sửa chữa chưa kịp xóa đi.

Ngôn ngữ bậc cao[sửa|sửa mã nguồn]

Ngôn ngữ bậc cao (high-level programming languages) hay “ngôn ngữ lập trình thế hệ 3” (3GL, third-generation programming languages) ra đời vào những năm 1950. Đây là các ngôn ngữ hình thức, dùng trong lập trình máy điện toán và không lệ thuộc vào hệ máy tính cụ thể nào. Nó giải phóng người lập trình ứng dụng làm việc trong hệ điều hành xác định mà không phải quan tâm đến phần cứng cụ thể. Các ngôn ngữ được phát triển liên tục với các dạng và biến thể mới, theo bước phát triển của kỹ thuật điện toán.

Những ngôn từ bậc cao thời kỳ đầu có FORTRAN lập ra năm 1954 [ 6 ], COBOL năm 1959 [ 7 ], BASIC năm 1963 [ 8 ], Pascal năm 1970 [ 9 ], C năm 1970 [ 10 ], … Chúng có sự khác nhau về từ khóa, ký hiệu, cú pháp, và cả về tổ chức triển khai những segment dữ liệu trong bộ nhớ. Sự tăng trưởng lập trình dẫn đến ngôn từ C có những ưu việt trong lập trình và quản trị tài liệu, nên được dùng nhiều, được tăng trưởng tiếp và thành nền ý tưởng sáng tạo cho tăng trưởng nhiều ngôn từ mới .Những ngôn từ được dùng phổ cập hiện có ActionScript, C, C + +, MATLAB, C #, Haskell, Java, JavaScript, Objective-C, Perl, PHP, Python, Ruby, Smalltalk, SQL, Visual Basic, và nhiều nữa [ 11 ] .

Ngày nay các ngôn ngữ lập trình đều cung cấp môi trường soạn thảo mã nguồn, có yểm trợ cao về kiểm tra cú pháp. Một số ngôn ngữ lưu mã nguồn ở dạng văn bản. Song một số khác, thay vì được dịch ra mã máy, lại được lưu ở dạng mã gọi là Bytecode (hoặc Portable code), và có trình thông dịch tương ứng để thực thi dạng mã này. Bytecode được sử dụng trong ngôn ngữ lập trình Java của Sun Microsystems cũng như họ ngôn ngữ lập trình .NET gần đây của Microsoft và Visual Basic trước phiên bản.NET.

Các ngôn ngữ lập trình khác nhau hỗ trợ các phong cách lập trình khác nhau (còn gọi là các phương pháp lập trình). Một phần của công việc lập trình là việc lựa chọn một trong những ngôn ngữ phù hợp nhất với bài toán cần giải quyết. Các ngôn ngữ lập trình khác nhau đòi hỏi lập trình viên phải xử lý các chi tiết ở các mức độ khác nhau khi cài đặt các thuật toán. Thông thường, điều này dẫn tới thỏa hiệp giữa thuận lợi cho việc lập trình và hiệu quả của chương trình, hay thỏa hiệp giữa “thời gian lập trình” và “thời gian tính toán”.

Phát triển ứng dụng[sửa|sửa mã nguồn]

Phần mềm là danh từ chỉ một gói gồm các chương trình máy tính và dữ liệu. Tài liệu đi kèm và bản quyền phần mềm cũng được coi là một phần quan trọng của phần mềm, mặc dù chúng không liên quan đến việc lập trình.

Quy trình xây dựng phần mềm bao gồm các công việc chính:

  • Phân tích yêu cầu (requirements analysis)
  • Đặc tả (specification)
  • Thiết kế (design and architecture)
  • Lập trình (coding)
  • Biên dịch (compilation)
  • Kiểm thử (testing)
  • Viết tài liệu (documentation)
  • Bảo trì (maintenance)
  1. ^ máy tính nhúng, là board Các điều khiển và tinh chỉnh thiết bị đơn thuần như trong máy giặt hoàn toàn có thể dùng bộ giải quyết và xử lý 4 bit. trái lại điều khiển và tinh chỉnh thiết bị phức tạp thì dùng, là board PC công nghiệp có mức chống ồn, rung lắc và chịu ô nhiễm không khí cao .

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

  • TechBookReport – reviews of books on computer programming
Rate this post
Banner-backlink-danaseo

Bài viết liên quan

Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments