ứng dụng enzyme trong sản xuất bia
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.64 KB, 27 trang )
Bạn đang đọc: ứng dụng enzyme trong sản xuất bia
I.
MỞ ĐẦU
Sử dụng enzyme trong sản xuất và đời sống là một vấn đề được các nhà
khoa học và kỹ thuật chú ý từ lâu. Ngày nay, việc sử dụng này đã trở thành phổ
biến ở nhiều nước và đã mang lại lợi ích kinh tế khá lớn.
Enzyme là chất xúc tác sinh học không chỉ có ý nghĩa cho quá trình sinh
trưởng, sinh sản của thực vật mà nó còn đóng vai trò rất quan trọng trong chế
biến thực phẩm, trong y học, trong kỹ thuật phân tích, trong công nghệ gen và
bảo vệ môi trường.
Ngày nay, bia là loại đồ uống không thể thiếu đối với cuộc sống của con
người. Bia là loại nước giải khát, có độ cồn thấp, giàu dinh dưỡng. Ngoài việc
cung cấp một lượng calori khá lớn, trong bia còn chứa một hệ enzyme phong
phú, kích thích tiêu hoá cho cơ thể con người.
Hiện nay, trong công nghệ sản xuất bia, người ta thường sử dụng enzyme
amylase có trong mầm đại mạch để thủy phân tinh bột có trong mầm đại mạch.
Ngoài ra, người ta còn sử dụng các enzyme khác có trong mầm đại mạch để
thủy phân và chuyển hóa các chất không tan sang trạng thái tan như chuyển
protein, cellulose… sang amino acid và glucose. Lợi dụng quy luật sinh lý bình
thường này của hạt, loài người đã biết can thiệp rất khoa học để quá trình trên
được tiến hành nhanh hơn, mạnh hơn và biết ngưng ở giai đoạn nhất định, phục
vụ cho mục đích của mình trong việc tạo ra sản phẩm là bia chứ không phải là
cây lúa mạch như trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, xét về mặt kỹ thuật
thấy có một số thiếu sót cơ bản như lượng chất khô bị tiêu hao trong quá trình
nảy mầm là rất lớn; quá trình này đòi hỏi thời gian cho sinh tổng hợp các loại
enzyme và quá trình chuyển hóa vật chất ; … do đó, sử dụng enzyme từ vi sinh
vật là hướng nghiên cứu và ứng dụng ở nhiều nước. Việc ứng dụng enzyme từ
nguồn vi sinh vật vào sản xuất bia không phải là nhằm mục đích thay thế hoàn
toàn amylase có trong hạt malt mà chỉ ứng dụng vào từng công đoạn nhất định
để hoàn thiện hơn trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên, các nhà máy bia ở nước
ta chưa chú ý tới việc sử dụng enzyme trong quá trình sản xuất. Xuất phát
từnhững lý do trên nhóm em chọn đề tài “Ứng dụng của enzyme trong sản xuất
1
bia” với mong muốn những ứng dụng của enzyme sẽ được sử dụng rộng rãi
trong việc sản xuất bia.
2
II.
NỘI DUNG
II.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ bia hiện nay
II.1.1 Trên thế giới
Đối với các nước có nên công nghiệp phát triển, đời sống kinh tế cao thì
cao thì bia được sử dụng như một loại nước giải khát thông dụng.
Hiện nay trên thế giới có trên 25 nước sản xuất bia với sản lượng trên 100
tỉ lít/ năm trong đó: Mỹ, Đức mỗi nước sản xuất trên dưới 10 tỉ lít/ năm, Trung
Quốc 7 tỉ lít/ năm
Lượng bia tiêu thụ tăng hầu như khắp càng vùng, ngoại trừ vùng Địa
Trung Hải, đẩy lượng tiêu thụ trên toàn thế giới tăng theo. Nhưng lượng tăng
đáng kể nhất là Trung Quốc, Thái Lan, Philippin với tốc độ tăng đến 11,2%.
Châu Á là một trong những khu vực lượng bia tiêu thụ đang tăng lên
nhanh, các nhà nghiên cứu thị trường bia của thế giới nhận định rằng châu Á
đang dần giữ vị trí đứng đầu về tiêu thụ bia trên thế giới.
Trong khi sản xuất bia ở châu Âu có xu hướng giảm, thì châu Á, trước kia
có mức tiêu thụ bia trên đầu người thấp thì đến nay tăng bình quân 6,5%/ năm.
Thái Lan có mức tăng bình quân cao nhất 26,5%/ năm, tiếp theo là philippin
22,2%/ năm, Malaysia 21,7%/ năm, Indonexia 17,7%/ năm. Đấy là những nước
có tốc độ tăng nhanh trong khu vực.
Thị trường bia Nhật Bản chiếm 66% thị trường bia khu vực với 30,9 tỉ
USD. Năm 1939 sản lượng bia ở Nhật Bản là 30 triệu lít và mức tiêu thụ đầu
người tương đương ở Việt Nam hiện nay, năm 1960 sản lượng bia vượt quá 100
triệu lít, đến năm 1991 mức tiêu thụ bình quân đầu người là 55,6 lít/ người/ năm.
Lượng bia tiêu thụ trong năm 2004 đã đạt trên 6500 triệu lít.
Công nghiệp bia của Trung Quốc phát triển là nguyên nhân chủ yếu thúc
đẩy sự tăng trưởng của ngành bia châu Á. Từ năm 1980-1990 sản lượng bia tăng
từ 69,8 triệu lít lên 1230 triệu lít, tức tăng 17 lần. Thời kỳ từ 1981-1987 mức
tăng trưởng trên 20%. Đến năm 2004, tổng lượng bia tiêu thụ ở Trung Quốc là
28640 triệu lít, xếp thứ hạng đầu tiên trên thế giới.
Tổng lượng bia tiêu thụ của các nước khu vực châu Á trong năm 2004 đạt
43147 triệu lít, tăng 11,2% so với năm 2003.
II.1.2. Tại Việt Nam
3
Bia được đưa vào Việt Nam từ năm 1890 cùng với sự có mặt của nhà máy
bia Sài Gòn và nhà máy bia Hà Nội, như vậy ngành bia Việt Nam có lịch sử trên
100 năm.
Hiện nay nhu cầu của thị trường, chỉ trong một thời gian ngắn, ngành sản
xuất bia có những bước phát triển mạnh mẽ thông qua việc đầu tư và mở rộng
các nhà máy bia đã có từ trước và xây dựng các nhà máy bia mới thuộc Trung
ương và địa phương quản lý, các nhà máy lien doanh với các hãng nước ngoài.
Công nghiệp bia phát triển kéo theo sự phát triển của các ngành sản xuất khác.
Ngành bia là một trong những ngành có mức thuế TTĐB cao lên hàng
năm nộp vào ngân sách nhà nước một lượng đáng kể
+ Tình hình sản xuất bia trong nước
Năm năm trở lại đây, do tác động của nhiều yếu tố như tốc độ tăng trưởng
GDP, tốc độ tăng dân số, tốc độ đô thị hóa, tốc độ đầu tư… mà ngành công
nghiệp bia đã phát triển với tốc độ cao. Chẳng hạn như năm 2003, sản lượng bia
đạt 1290 triệu lít, tăng 20,7% so với năm 2002, đạt 79% so với công suất thiết
kế, tiêu thụ bình quân đầu người đạt 16 lít/ năm, nộp ngân sách nhà nước
khoảng 3650 tỷ đồng.
+ Về số lượng cơ sở sản xuất
Số lượng cơ sở sản xuất giảm xuống so với những năm cuối thập niên
1990, đến năm 2003 chỉ còn 326 cơ sở sản xuất so với 469 cơ sở tính từ năm
1998. Điều này là do yêu cầu về chất lượng bia, về mức độ vệ sinh an toàn thực
phẩm ngày càng cao, đồng thời do sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp bia lớn
có thiết bị hiện đại, thiết bị tiên tiến nên có sự cạnh tranh gay gắt,nhiều cơ sở sản
xuất quy mô nhỏ, chất lượng thấp không đủ khả năng cạnh tranh đã phá sản
hoặc chuyển sang sản xuất sản phẩm khác. Trong các cơ sở sản xuất bia đó, có
Sabeco chiếm sản xuất trên 200 triệu lít/ năm, Habeco năng suất hơn 100 triệu
lít/ năm, 15 nhà mayys bia có năng suất trên 15 triệu lít/ năm và khoảng 165 cơ
sở sản xuất có năng lực dưới 1 triệu lít/ năm
Hai tổng công ty Bia- Rượu-Nước giải khát Hà Nội và Sài Gòn là 2 đơn
vị đóng góp tích cực và giữ vai trò chủ đạo trong ngành bia. Theo báo cáo của
các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương và của hai tổng công ty, riêng năm
2003, doanh thu của ngành Bia Rượu Nước giải khát đạt 16497 tỷ đồng, nộp
4
ngân sách nhà nước 5000 tỷ đồng, tạo điều kiện việc làm và thu nhập ổn đinh
cho trên 20000 lao động. sản lượng bia tiêu thụ toàn quốc đạt 1290 triệu lít,
78,8% công suất thiết kế trong đó Habeco và Sabeco đạt 472,28 triệu lít ( chiếm
36,61% toàn ngành bia). Hai tổng công ty đã phát huy hết năng suất, phải gia
công tại một số địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người
tiêu dùng
+ Về thương hiệu bia
Những thương hiệu bia sản xuất tại việt nam đang chiếm ưu thế, đứng vứng trên
thị trường và có khả năng tiếp tục phát triển mạnh trong quá trình hội nhập, đó
là: Sài Gòn, Sài Gòn special, 333, Hà Nội, Heineken, Tiger, Halida… Lượng bia
thuộc các thương hiệu này đạt 713,8 triệu lít chiếm 55,24% thị phần tiêu thụ.
Mảng thị trường bia cao cấp cũng đã xuất hiện một số loại bia nhập khẩu và các
nhà máy bia tươi ( tại Hà Nội, cũng như thành phố Hồ Chí Minh có trên 10 nhà
hàng bia tươi) với sản lượng nhỏ nhưng đang ngày càng được ưa chuộng.
+ Về trình độ công nghệ và thiết bị:
Các nhà máy bia có công suất trên 100 triệu lít/ năm đều có hệ thống thiết
bị hiện đại, tieentieens nhập khẩu từ các nước có nền công nghiệp sản xuất bia
5
phát triển như: Đức, Đan Mạch… Các nhà máy bia có công suất trên 20 triệu lít/
năm cho đến nay đã đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị, tiếp thu trình độ công
nghệ tiên tiến vào sản xuất
+ Về nguyên liệu cho ngành bia
Năm 2003, kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu cho ngành sản xuất bia
( chủ yếu là malt và hoa houblon) khoảng 76 triệu Usd. Tổng công ty Habeco đã
thử thử nghiệm trồng cây đại mạch ở một số nơi nhưng chưa có kết quả do sự
không phù hợp về thổ nhưỡng và khí hậu. hiện tại, đã có một nhà máy sản xuất
malt đại mạch với công suất trên 50000 tấn/ năm và có khả năng mở rộng nên
100000 tấn/ năm
6
II.1.3: Quy trình sản xuất bia
Nguyên liệu
Xử lý nguyên liệu
Nghiền nguyên liệu
Nấu nguyên liệu
Lọc tách bã malt
Bã malt
Houblon hóa
Lắng trong và làm lạnh
Men giống
Lên men chính
Lên men phụ và tàng trữ bia non
Lọc trong bia
Ổn định bia
sau khi lọc
Chiết chai
Thanh trùng
Bia thành phẩm
7
Bã hoa
II.2. Enzyme dùng trong sản xuất bia
II.2.1. Enzyme – amylase
a) Cấu tạo:
Enzyme α-Amylase là proteincó phân tử lượng thấp, thường nằm trong
khoảng50.000 đến 60.000 Dal. Có một số trường hợp đặc biệt như α-Amylase từ
loài vi khuẩn Bacillus macerans có phân tử lượng lên đến 130.000 Dal. Đến nay
người ta đã biết rất rõ cácchuỗi acid amin của 18 loại α-Amylase nhưng chỉ có 2
loại α-Amylase là taka-Amylase từ Apergillus orysee và α-Amylase của tụy lợn
được nghiên cứu kỹ về hình thể không gian cấutrúc bậc 3. Mới đây các nghiên
cứu về tính đồng nhất của chuỗi mạch acid amin và về vùng kịnước cho thấy các
chuỗi mạch acid amin của tất cả các Enzyme α-Amylase đều có cấu trúc bậc 3
tương tự nhau
Cấu trúc không gian của α-Amylase
b. Cơ chế tác dụng:
α-Amylase từ các nguồn khác nhau có nhiều điềm rất giống nhau. αAmylase có khả năng phân cắt các liên kết α-1,4-glucoside nằm ở phía bên trong
phân tử cơ chất ( tinh bộthoặc glycogen ) một cách ngẫu nhiên, không theo một
trật tự nào cả. α-Amylase không chỉthủy phân hồ tinh bột mà nó thủy phân cả
hạt tinh bột nguyên song với tốc độ rất chậm.
8
Quá trình thủy phân tinh bột bởi α-Amylase là quá trình đa giai đoạn:
+ Ở giai đoạn đầu ( giai đoạn dextrin hóa ): Chỉ một số phân tử cơ chất bị
thủy phân tạo thành một lượng lớn dextrin phân tử thấp (α-dextrin ), độ nhớt của
hồ tinh bột giảm nhanh( các amylose và amylopectin đều bị dịch hóa nhanh ).
+ Sang giai đoạn 2 ( giai đoạn đường hóa ): Các dextrin phân tử thấp tạo
thành bị thủy phân tiếp tục tạo ra các tetra-trimaltose không cho màu với iodine.
Các chất này bị thủy phân rất chậm bởi α-Amylase cho tới disaccharide và
monosaccharide. Dưới tác dụng của α-Amylase, amylose bị phân giải khá nhanh
thành oligosaccharide gồm 6 – 7 gốc glucose ( vìvậy, người ta cho rằng αAmylase luôn phân cắt amylose thành từng đoạn 6 – 7 gốcglucopiranose 1 ).
+ Sau đó, các poliglucose này bị phân cắt tiếp tục tạo nên các mạch
polyglucosecolagen cứ ngắn dần và bị phân giải chậm đến maltotetrose,
maltotriose và maltose. Qua mộtthời gian tác dụng dài, sản phẩm thủy phân của
amylose chứa 13% glucose và 87% maltose.Tác dụng của α-Amylase lên
amylopectin cũng xảy ra tương tự nhưng vì không phân cắt được liên kết α-1,6glycoside ở chỗ mạch nhánh trong phân tử amylopectin nên dù có chịu tác dụng
lâu thì sản phẩm cuối cùng, ngoài các đường nói trên ( 72% maltose và 19%
glucose ) còn códextrin phân tử thấp và isomaltose 8%.
Tóm lại, dưới tác dụng của α-Amylase, tinh bột có thể chuyển thành
maltotetrose,maltose, glucose và dextrin phân tử thấp. Tuy nhiên, thông thường
α-Amylase chỉ thủy phântinh bột chủ yếu thành dextrin phân tử thấp không cho
màu với Iodine và một ít maltose. Khảnăng dextrin hóa cao của α-Amylase là
tính chất đặc trưng của nó. Vì vậy, người ta thường gọi loại Amylase này là
Amylase dextrin hóa hay Amylase dịch hóa.
c. Nguồn thu nhận
– Động vật: có trong tụy tạng của động vật.
-Thực vật:
+ Đại mạch, lúa : Qúa trình nảy mầm của đại mạch là giai đoạn chuyển
hóa enzyme từ trạng thái không hoạt động sang trạng thái hoạt động, hạt đại
mạch trước khi ngâm không có hoạt lực của emzyme α-Amylase, khi trải qua 39
4 ngày trong giai đoạn nảy mầm thì hoạt lực đạt tới mức cực đại vào ngày thứ 7.
Sau đó giảm dần.
– Vi sinh vật
+ Ngày nay do ưu thế về nhiều mặt vi sinh vật trở thành nguồn thu
enzyme α-Amylase chủ đạo.
+ Các giống nấm sợi thường dùng là giống nấm sợi Asp.niger,
Asp.oryzase, Asp.awamori
+ Nấm men và giả nấm men thuộc các giống: Candida, Saccharomyces.
+Vi khuẩn: gồm nhóm ưa nhiệt (Bac.licheniformis Bac.stearothermophilu) và nhóm ưa ẩm (Bac.subtilis Bac.amyloliquefaciens)
d. Phương pháp thu nhận.
* Phương pháp thu từ malt đại mạch.
* Phương pháp thu nhận từ Vi sinh vật:
– Sự tổng hợp enzyme amylase không những phụ thuộc vào tính chất di
truyền của vi sinh vật mà còn phụ thuộc vào việc tuyển chọn các điều kiện nuôi
cấy đặc hiệu, ngoài ra các điều kiện lý hóa trong quá trình nuôi cấy cũng đóng
vai trò quan trọng.
– Những yếu tố ảnh hưởng: thành phần môi trường, tính chất cơ lý của
môi trường, độ tiệt trùng, độ ẩm ban đầu, độ thoáng khí nhiệt độ và pH môi
trường.
– Có hai phương pháp nuôi Vi sinh vật:
+ Nuôi vsv tạo α -amylase bằng phương pháp bề mặt
+ Nuôi vsv tạo α -amylase bằng phương pháp bề sâu.
– Quy trình công nghệ sản xuất α –amylase từ Asp.oryzase
10
Quy trinh công nghệ.
Phương pháp thu nhận từ động vật: 98% tụy tạng được cấu tạo từ tế bào
ngoại bào tiết hoặc là tế bào tuyến. Các tế bào này tiết enzyme tiêu hóa vào
trong tế bào.
d. Ứng dụng trong sản xuất bia.
Trong công nghệ sản xuất bia truyền thống các nước phương Tây chủ yếu
sử dụng enzim α –amylase của malt để thủy phân tinh bột trong malt, sau đó
đến giai đoạn rượu hóa bởi nấm men Saccharomyces. Cơ sở khoa học của việc
sử dụng malt là khi đại mạc chuyển từ trạng thái hạt sang trạng thái nảy mầm,
enzyme α –amylase sẽ được tổng hợp và enzyme này sẽ thủy phân tinh bột có
trong hạt tạo ra năng lượng và vật chất cho sự nảy mầm.
Enzyme α –amylase tác động vào giai đoạn đường hóa biến đổi tinh bột
thành các dextrin và maltose. Qúa trình nảy mầm xảy ra trong giai đoạn nấu bia
Trong quá trình này malt sau khi được nghiền sẽ hòa tan chung với nước theo
một tỷ lệ thích hợp dưới tác dụng của các enzyme ở nhiệt độ nhất định sẽ được
đường hóa trong nồi nấu malt.
11
Trong giai đoạn lên men tiếp theo, các chát đường, dextrin có phân tử
thấp sẽ được chuyển hóa thành rượu etylic, C02 và một số sản phẩm phụ khác
tạo thành bia theo yêu cầu kỹ thuật và chất lượng sản phẩm.
II.2.2. Enzyme – amylase
a)
–
Tính chất vật lý:
Chỉ có trong malt, kém bền ở nhiệt độ cao, bị vô hoạt hoàn toàn ở 70◦C.
Kém bền khi có Ca2+
Bị kìm hãm bởi Cu2+, Hg2+, urease, iodoacetamide, iodine, ôzon…
pH tối thích trong dung dịch tinh bột thuần khiết là 4,6 còn trong dung dịch nấu(
–
khôngsôi) là 5,6
Nhiệt độ tối thích trong dung dịch tinh bột thuần khiết là 40 – 50 ◦C còn trong
b)
–
dịch nấu tinh bột là 60 – 65 ◦C
Cấu tạo:
Enzyme β- amylase là một albumin
Tâm xúc tác của nó chứa nhóm– SH và – COOH cùng với vòng imizadol của
–
các gốc histidin
Là một enzyme ngoại phân( exoenzyme), có ái lực với các liên kết 1,4-
c)
d)
–
glycodise các đầu không khử của một mạch liên kết – 1,4 glycodise
Nguồn gốc:
Chỉ phổ biến ở giới thực vật, đặc biệt có ở hạt nảy mầm (malt)
Trong vi khuẩn thì không có
Còn trong nấm sợi( nấm mốc) thì cho đến nay vẫn chưa chứng minh hoàn toàn
Tác dụng trong quá trình sản xuất bia:
Chủ yếu trong giai đoạn đường hóa: biến đổi tinh bột thành các dextrin và
–
maltose
Cơ chế:
12
+ Enzyme β- amylase xúc tác sự thủy phân các liên kết 1,4 – glucan trong
tinh bột, glycopen và saccharide, phân cắt tuần tự từng nhóm maltose từ đầu
không khử của mạch. Maltose được hình thành do sự xúc tác của β – amylase.
+ Hầu như không thủy phân hạt tinh bột nguyên mà chỉ thủy phân tinh bột
hồ hóa.
+ Có khả năng thủy phân 100% amylose thành maltose và 54- 58%
amylopectin thành maltose
+ Khi gặp liên kết α – 1,4 – Glycoside đứng kế cận liên kết α – 1,6 –
glycoside thì nó ngừng tác dụng. Phần còn lại không bị tác dụng gọi là β –
dextrin (nó chứa nhiều liên kết 1,6- glycoside và cho màu tím đỏ với iốt)
Nếu có cả α và β – amylase cùng đồng thời tác dụng lên tinh bột thì
tinh bột bị phân hủy đến 95%.
II.2.3. enzyme glucoamylase
a.Cấu tạo hóa học enzym glucoamylase
– Enzym glucoamylase có mã số EC: 3.2.1.Tên khoa học: glucan 1,4-αglucohydrolase .Ngoài ra enzym glucoamylase còn có các tên gọi khác như:
amyloglucosidase γ – amylase; lysosomal α – glucosidase; acid maltase; exo1,4-α-glucoside; glucose amylase; γ -1.4 -glucan glucohydrolase.
Glucoamylase I và glucoamylase II. Cả hai dạng glucoamylase đều là
những chuổi glyco – protein, trong phân tử có chứa D – gluco, D – maltose, D –
galactose, thành phần carbonhydrate trong phân tử glucoamylase I chiếm
khoảng 18%, còn với phân tử glucoamylase II là 10%.
–
Phân tử carbonhydrate tham gia trong thành phần cấu tạo enzyme glucoamylase
đóng vai trò giúp ổn định cấu trúc enzyme. Ngoài ra chúng còn giúp tạo liên kết
với cơ chất là các phân tử polysaccharide giúp cho vùng xúc tác trên enzym gần
với cơ chất hơn, do đó quá trình thủy phân của enzyme thuận lợi hơn.Thành
phần acid amine tham gia tạo thành chuổi polypeptid trong phân tử
glucoamylase cũng khác nhau khi enzyme glucoamylase được thu nhận từ các
nguồn khác nhau.Số lượng acid amine tham gia vào chuổi polypeptid cấu tạo
nên phân tử glucoamylase thu nhận từ nấm mốc Aspergillus niger và
Aspergillus awamori khoảng 650 – 700 acid amin. Các acid amin chính tham gia
13
trong trung tâm hoạt động của enzyme glucoamylase bao gồm acid glutamic,
tryptophan, tyrosin, asparagin, acid aspatic, lysin, serin. Trong đó acid glutamic
ở vị trí thứ 179 và 400 đóng vai trò chính trong việc xúc tác thủy phân liên kết O
– glucozit của cơ chất.
Sơ đồ cấu tạo trung tâm hoạt động của enzyme glucoamylase
b. Cấu trúc không gian enzym glucoamylase
Trong không gian, phân tử glucoamylase được chia làm ba vùng với chức
năng riêng biệt:
– Vùng SBD (Starch binding domain: vùng gắn kết với tinh bột) có kích
thước khoảng 30 A0. Giữ chức năng liên kết với phân tử cơ chất.
– Vùng CD (Catalyse Domain: vùng xúc tác) có kích thước khoảng 60 A0,
giữ chức năng xúc tác phản ứng thủy phân liên kết O – glucozit.
– Vùng Linker có độ dài khoảng 100 A0 liên kết hai vùng trên lại với nhau.
14
Sơ đồ cấu trúc không gian Enzyme Glucoamylase
c. Các tính chất của glucoamylase
Đặc trưng phản ứng: enzyme glucoamylase xúc tác phản ứng thủy phân
liên kết 1,4 – 1,6 o – glucoside và tách tuần tự từng gốc gluco từ đầu không khử
của chuỗi polysaccharide. Enzym glucoamylase xúc tác phản ứng thủy phân tinh
bột và tách tuần tự từng gốc glucose từ đầu không khử của chuổi
polysaccharide. Gốc gluco từ đầu không khử được gọi là glycone, còn chuổi
oligosaccharide sau khi gluco được tách ra thì được gọi là Alglycone.
Cơ chế xúc tác thủy phân liên kết o – glucozit là do hoạt động chủ yếu
của một cặp acid amin đóng vai trò như một cặp acid – base. Khi tương tác với
cơ chất, acid glutamic ở vị trí thứ 179 đóng vai trò như một chất xúc tác acid, nó
sẽ proton hóa oxi – glycosidic (phân tử oxi ở vị trí liên kết o – glucozit). Acid
glutamic ở vị trí thứ 400 đóng vai trò như một chất xúc tác base, acid amin này
sẽ thu hút và tạo liên kết với proton H+ của phân tử nước làm giải phóng gốc
OH-, gốc OH- này sẽ tấn công vào vị trí carbon glycosidic và như vậy liên kết o
– glucozit của phân tử cỏ chất sẽ bị phá vỡ.
d.Nguồn thu nhận.
– Glucoamylase được các nhà khoa học Nhật tách ra lần đầu tiên từ
Aspergillus awamori (Katihara, Kurushima, 1966). Sau đó được tìm thấy ở
Rhizopus delemar, Aspergillus niger, Aspergillus oryzae và các nhóm vi sinh vật
khác cũng như ở mô động vật.
15
– Glucoamylase từ nấm mốc là các protein có khối lượng phân tử lượng
dao động rất lớn từ 27.000 đến 112.000 Dal, tuỳ thuộc vào nguồn gốc của
enzyme
e. Qúa trinh thu nhận.
Sản xuất và thu nhận enzyme glucoamylase bằng phương pháp lên men
chim, nguồn vi sinh vật là Aspergillus niger( nấm mốc).
Quy trình công nghệ
Nguyên liệu
Trộn
Tiệt trùng
Nấm mốc
Cấy giống
Nhân giống
Lên men
Nghiền
Nước
Trích li
Bã
Li tâm
Bã
Siêu lọc UF
Chất độn
Sấy thăng hoa
Phối trộn
Bao bì
Đóng gói
Chế phẩm enzyme
Quy trình công nghệ
16
– Nguyên liệu : Nguyên liệu cho môi trường lên men: chọn môi trường
có 65% bột ngô, 0.9% NaNO3, 0.005% MgSO4 và 10% nước chiết mầm đại
mạch.
– Trộn :Mục đích công nghệ: chuẩn bị cho quá trình lên men.Quá trình
trộn làm cho nguyên liệu phân tán đều vào nhau.
– Tiệt trùng:Quá trình tiệt trùng sẽ làm giảm lượng vi sinh vật có trong
nguyên liệu, tức là giảm các yếu tố cạnh tranh và các yếu tố làm thay đổi thành
phần dinh dưỡng môi trường lên men, nhằm tạo điều kiện tốt cho Aspergillus
Niger phát triển và tạo hệ enzyme glucoamylase. Sử dụng thiết bị tiệt trùng dạng
bản mỏng, tiệt trùng trong thời gian 20 – 30 phút ở 121oC
– Quá trình nhân giống: Độ ẩm của môi trường: 60 – 65%, nhiệt độ 28 –
350 C, pH tối ưu: 4-6.5, thời gian 30 – 36 giờ.
+ Trong phòng thí nghiệm: Ở số lượng nhỏ. Môi trường nhân giống được
đưa tiệt trùng, sau đó cấy giống vi sinh vật vào môi trường và cho sinh trưởng ở
điều kiện bình thường.
+ Trong phân xưởng: Ta sử dụng thiết bị lên men hình trụ, có cánh khuấy,
bộ phận sục khí và lớp vỏ điều nhiệt.
– Cấy giống: Mục đích công nghệ: Chuẩn bị cho quá trình lên men thu
nhận chế phẩm enzyme glucoamylase. Các biến đổi của nguyên liệu: Không có
biến đổi đáng kể.
– Lên men: lên men nhằm thu nhận chế phẩm enzyme glucoamylase.Thiết
bị lên men hình trụ, có canh khuấy, có hệ hống sục khí. Quá trình nuôi cấy nấm
mốc thường kéo dài từ 35 – 48 giờ tùy thuộc vào thời gian hoàn thành việc tạo
ra enzyme. Nhiệt độ 28 -35o C, không kí cần sục vào môi trường 30 – 40 m 3/m3
x giờ.
– Nghiền: nếu nguyên liệu xuất hiện nhiều hạt kích thước lớn do vón cục
bởi độ ẩm, ta sẽ phải cho nguyên liệu qua máy nghiền.
– Trích li: Mục đích công nghệ: Khai thác, dùng nước để chiết rút enzyme
glucoamylase trong canh trường
17
– Li tâm: Tách sinh khối ra khỏi dung dịch sau trích ly. Li tâm 4 – 5 phút
ở nhiệt độ 15 – 20o C.
Siêu lọc UF: Đây là quá trinh tách và tinh sạch enzyme Dịch thu được sau
khi phân riêng bằng membrane đã được tách một phần nước (cô đặc) chuẩn bị
cho quá trình sắc ký trao đổi ion. Sử dụng thiết bị có áp lực thẩm thấu: 6.9 bar,
đường kinh mao quản trung binh từ 2 đến 50nm.
– Sấy thăng hoa: Mục đích: quá trình sấy sẽ tách bớt nước ra khỏi bán
thành phẩm, chuyển nguyên liệu sang dạng rắn.Bảo quản: quá trình sấy làm
giảm giá trị hoạt độ của nước, ức chế hoạt động của enzyme, chế phẩm enzyme
không bị biến đổi trong quá trình bảo quản.
– Phối trộn Mục đích: giai đoạn này ta trộn các chất bảo quản và chất ổn
định hoạt tính enzyme vào để bảo quản và hoàn thiện sản phẩm.
– Đóng gói: Mục đích: hoàn thiện sản phẩm, dễ dàng trong bảo quản và
vận chuyển, thương mại .
f. Ứng dụng trong quy trình sản xuất bia
Chế phẩm glucoamylase từ nấm mốc Aspergillus, Rhizopus … được thay
thế malt làm tác nhân đường hóa tinh bột trong sản xuất bia từ nguyên liệu có
bột. Việc sử dụng chế phẩm amylase vi sinh vật thay malt đã tiết kiệm được
hàng vạn tấn đại mạch loại tốt, giảm giá thành, rút ngắn quy trình sản xuất.
Trong giai đoạn đường hóa, glucoamylase chiếm vị trí hàng đầu và đóng
vai trò quyết định trong việc chuyển hóa tinh bột thành đường để lên men, do đó
cần chọn chủng vi sinh vật có khả năng sản sinh nhiều enzym glucoamylase.
Trong sản xuất rượu người ta thường dùng hỗn hợp canh trường bề mặt của
Aspergillus Usamii và Aspergillus Balatae.
Nếu coi tổng lượng đường maltose, glucose, saccharose, fructose là 100%
thì khi đường hóa bằng malt ta có 71% maltose, 24 – 28% glucose, còn khi
đường hóa bằng amylase nấm mốc sẽ có 14 – 21% maltose, 80 – 85% glucose,
sản phẩm cuối cùng của sự thủy phân bởi amylase nấm mốc chủ yếu là glucose
– đường dễ lên men, do vậy sự lên men bia xảy ra nhanh hơn
II.2.4. Enzyme protease
18
a)
Khái quát chung:
Protease là chất xúc tác thủy phân protein tạo thành những phân tử thấp
và các amino acid. Hay nói cách khác, protease là các enzyme phá vỡ liên kết
peptid giữa các amino acid của protein. Chúng không chỉ có ý nghĩa cho quá
trình sinh trưởng, sinh sản của mọi sinh vật mà còn đóng vai trò rất quan trọng
trong công nghệ chế biến thực phẩm, trong y học, trong công nghệ gen và bảo
vệ môi trường. Protease là một trong những enzyme được ứng dụng rất nhiều
trong mọi lĩnh vực. Đặc biệt là trong công nghệ thực phẩm, protease đã có
những đóng góp rất to lớn trong việc phục vụ và nâng cao đời sống của con
người. Hiện nay trên thế giới, công nghệ thu nhận protease từ vi sinh vật đang
còn phát triển, tìm tòi về khả năng ứng dụng vô vàn của enzyme protease.
Cấu trúc không gian của enzyme đó
b)
. Phân loại
Chia protease thành hai loại: endopeptidase và exopeptidase
–
Endopeptidase gồm: aminopeptidase và Carboxypeptidase
+ Aminopeptidase: xúc tác thủy phân liên kết peptid ở đầu N tự do của
chuỗi polypeptid để giải phóng ra một amino acid, một dipeptid hoặc một
tripeptid.
+ Carboxypeptidase: Xúc tác thủy phân liêm kết peptid ở đầu C của chuỗi
–
polypeptid và giải phóng ra một amino acid hoặc một dipeptid.
Exopeptidase gồm: Serin proteinase; cystein proteinase; Aspartic proteinase và
Metallo proteinase
+ Serin proteinase: Là những proteinase chứa nhóm –OH của gốc serin
trong trung tâm hoạt động và có vài trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động
xúc tác của enzyme. Nhóm này bao gồm hai nhóm nhỏ là chymotrysin và
19
subtilisin. Các Serin proteinase thường hoạt động mạnh ở vùng kiềm tính và thể
hiện tính đặc hiệu cơ chất tương đối rộng.
+ Cysteine proteinase: Các proteinase chứa nhóm –SH trong trung tâm hoạt
động. Cysteine proteinase bao gồm các proteinase thực vật như papain, bromelin,
một vài protein động vật và proteinase ký sinh trùng. Các cysteine proteinase thường
hoạt động ở vùng pH trung tính, có tính đặc hiệu cơ chất rộng.
+ Aspartic proteinase: Hầu hết các aspartic proteinase thuộc nhóm pepsin.
Nhóm pepsin bao gồm các enzyme tiêu hóa như : pepsin, chymosin, cathepsin,
renin. Các aspartic proteinase có chứa nhóm carboxyl trong trung tâm hoạt động
và thường hoạt động mạnh ở pH trung tính.
+ Metallo proteinase: Metallo proteinase là nhóm proteinase được tìm
thấy ở vi khuẩn, nấm mốc cũng như các vi sinh vật bậc cao hơn. Các metallo
proteinase thường hoạt động vùng pH trung tính và hoạt độ giảm mạnh dưới tác
dụng của EDTA.
Ngoài ra, protease được phân loại một cách đơn giản hơn thành ba nhóm:
+ protease acid: pH 2-4
c)
+ protease trung tính: pH 7-8
+ protease kiềm : pH 9-11
Thu nhận
Enzyme là protein được sinh vật tổng hợp trong tế bào và là chất tham gia
xúc tác cho mọi phản ứng sinh học. Chính vì thế, mọi sinh vật đều được xem là
nguồn thu nhận để sản xuất enzyme. Nhưng vẫn chủ yếu là ba nguồn chính:
Động vật, thực vật và vi sinh vật.
Protease phân bố ở thực vật, động vật, vi sinh vật. Tuy nhiên nguồn
enzyme ở vi sinh vật phong phú nhất, có ở hầu hết các vi sinh vật như vi khuẩn,
nấm mốc và xạ khuẩn… có thể nói vi sinh vật là nguồn nguyên liệu thích hợp
nhất để sản xuất enzyme ở quy mô lớn dùng trong công nghệ và đời sống.
Enzyme Protease từ nguồn động vật và thực vật được loài người khai thác
và ứng dụng hàng ngàn năm để sản xuất và phục vụ trong cuộc sống. Nhưng
hiện nay lượng enzyme thu nhận từ thực vật và động vật được thay thế dần bằng
enzyme vi sinh vật. enzyme thu nhận từ các nguồn này thường rất khó và hiệu
20
quả kinh tế không cao. Nguồn enzyme từ vi sinh vật dần dần thay thế enzyme từ
động vật và thực vật do hàng loạt những ưu điểm về sinh lý vi sinh vật và về kỹ
thuật sản xuất được liệt kê như sau:
–
Vi sinh vật có khả năng chuyển hóa một khối lượng cơ chất lớn hơn khối lượng
–
cơ thể chúng •ang ngàn lần sau một ngày đêm.
Enzyme thu nhận từ vi sinh vật có hoạt tính cao.
Tốc độ sinh sản của vi sinh vật mạnh, trong thời gian ngắn có thể thu được
lượng sinh khối vi sinh vật rất lớn, giúp trong một thời gian ngắn thu được một
–
lượng enzyme nhiều hoặc lượng các sản phẩm trao đổi chất cao.
Một đặc điểm riêng có của vi sinh vật đó là cơ thể nhỏ bé nên việc vận hành,
–
kiểm soát thiết bị lên men trong quá trình sản xuất đơn giản hơn rất nhiều.
Vi sinh vật là giới sinh vật thích hợp cho sản xuất theo quy mô công nghiệp:
Trong sản xuất, quá trình sinh trưởng, phát triển và sinh tổng hợp enzyme của vi
sinh vật hoàn toàn không phụ thuộc vào khí hậu bên ngoài. Trong khi đó, sản
xuất enzyme từ nguồn thực vật và động vật không thể đưa vào quy mô công
–
nghiệp được.
Nguồn nguyên liệu dùng sản xuất enzyme theo quy mô công nghiệp rẽ tiền và dễ
kiếm, không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa rất lớn về mặt môi
trường sống. vi sinh vật không đòi hỏi quá khắt khe những yếu tố dinh dưỡng của
môi trường, nhất là những vi sinh vật tổng hợp enzyne. Chính vì thế enzyme được
–
sản xuất từ vi sinh vật thường rẻ tiền hơn enzyme từ các nguồn khác.
Vi sinh vật có thể sinh tổng hợp cùng một lúc nhiều loại enzyme khác nhau
Nhiều vi sinh vật có khả năng tổng hợp mạnh Protease, các enzyme này có thể ở
trong tế bào hoặc được tiết vào môi trường nuôi cấy. Một số Protease ngoại bào
đã sản xuất quy mô công nghiệp và được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành
–
d)
công nghiệp, trong nông nghiệp và trong y học.
Nguồn vi sinh vật thu nhận enzyme Protease chủ yếu gồm: vi khuẩn, nấm mốc,
xạ khuẩn.
Ứng dụng trong sản xuất bia.
Trong sản xuất bia, chế phẩm protease làm tăng độ bền của bia và rút
ngắn thời gian lọc, protease của A.oryrae dùng thủy phân protease trong hạt ngũ
cốc tạo điều kiện cho xử lý bia tốt hơn.
II.2.5. Enzyme pullulanase
21
a)
Nguồn gốc
Enzyme pullulanase có nguồn gốc từ vi khuẩn Aerbacteraerogenes và
Klebsiella
b)
Đặc tính và cơ chế xúc tác của pullulanase (α-dextrin 6-glucosidase)
Enzyme này có thể thuỷ phân các liên kết α-1,6 của tinh bột, glycogen,
pululan và các dextrin. Điều đáng chú ý là sự định vị của các liên kết α-1,6 có
ảnh hưởng lớn đến tác động của enzyme. Đặc biệt sự có mặt của hai liên kết α1,4 nằm liền kề bên liên kết α-1,6 là điều kiện cần thiết cho enzyme phân cắt
liên kết này. Do đó pullulan chính là cơ chất lý tưởng của pullulanase, vì nó là
một phân tử không phân nhánh cấu tạo bởi những đơn vị maltotriose (có hai liên
kết α-1,4) liên kết với nhau bằng cầu nối α-,6 glucoside. Pullulanase phân giải
các liên kết α-1,6 glucoside bị bao quanh tứ phía bởi các liên kết α-1,4. Nó còn có
khả năng thủy phân cả những dextrin phân tử thấp chỉ gồm có hai gốc maltose nối
nhau bằng liên kết α-1,6 glucoside. Tác dụng hiệp đồng của α-amylase và
pullulanase làm dextrin này bị thủy phân hoàn toàn. Pullulanase có pH tối ưu là 5 7, nhiệt độ tối ưu là 10 – 50oC. Ion Ca2+ hoạt hóa các enzyme này, trong khi đó
các ion Hg2+, Zn2+, Cu2+, Ag2+ và Co2+ lại có tác dụng kìm hãm.
c)
Công thức cấu tạo
Cấu trúc không gian của enzyme pullulanase
22
Công thức cấu tạo
d)
–
Ứng dụng trong sản xuất bia.
Tham gia thủy phân liên kết α – 1,6 glucoside các poly vào ligosaccharide
Phân cắt liên kếtα – 1,6 glucoside trong trường hợp liên kết này được bao quanh
–
tất cả các pha nhờ liên kết α – 1,4glucoside
Dextrin có phân tử thấp, dễ bị pululanse phân hủy tạo thành từ 2 gốc maltose,
–
nối với nhau bằng liên kết α – 1,6 glucoside.
Nếu sự kết hợpcủa α – amylase và pululanase, Dextrin sẽthủy phân hoàn toàn
II.2.6. Enzyme Cellulase
a) Cấu trúc của enzyme cellulose:
– Cellulase có bản chất là protein được cấu tạo từ các đơn vị là axit amin,
các axit amin được nối với nhau bởi lien kết peptid –CO-NH- .
– Ngoài ra, trong cấu trúc còn có những phần phụ khác, gồm một trung
tâm xúc tác và một đuôi tận cùng, phần đuôi này xuất phát từ trung tâm xúc tác
và được gắn them vùng glycosil hóa, cuối đuôi là vùng gắn kết với cellulose
(CBD: cellulose binding domain). Vùng này có vai trò tạo liên kết với cellulose
tinh thể.
– CBD làm gia tăng hoạt tính cellulase đối với tinh thể cellulose. Sự có
mặt của CBD sẽ hỗ trợ cho enzyme cellulase thực hiện việc cắt đứt nhiều liên
kết trong cellulose tinh thể.
23
– Vùng gắn kết với cellulose có cấu tạo khác với liên kết thông thường của
protein và việc thay đổi chiều dài của vùng glycosil hóa có ảnh hưởng đến hoạt
tính xúc tác của enzyme.
b) Tính chất của enzyme cellulose:
-Cellulase thủy phân cellulose tự nhiên và các dẫn xuất như
carboxymethyl cellulose (CMC) hoặc hydroxyethyl cellulose (HEC).
– Cellulase cắt liên kết β-1,4- glucosid trong cellulose, lichenin và các βD-glucan của ngũ cốc.
– Độ bền nhiệt và tính đặc hiệu cơ chất có thể khác nhau.
– Cellulase hoạt động ở pH từ 3-7, nhưng pH tối thích trong khoảng 4-5.
– Nhiệt độ tối ưu từ 40-50 độ C.
– Hoạt tính cellulose bị phá hủy hoàn toàn ở 80 độ C trong 10 đến 15 phút.
– Cellulase bị ức chế bởi các sản phẩm phản ứng của nó như glucose,
cellobiose và bị ức chế hoàn toàn bởi Hg.
– Ngoài ra, cellulose còn bị ức chế bởi các ion kim loại khác như Mn, Ag,
Zn nhưng ở mức độ nhẹ.
– Trọng lượng của enzyme cellulose thay đổi từ 30 -110 KDa (Begunin,
1990; Gilkes và cộng sự, 1991).
c) Nguồn gốc của enzyme cellulase :
• Được thu nhận từ các nguồn khác nhau:
– Động vật: dịch tiết dạ dày bò, các nhóm thân mềm…
– Thực vật: trong hạt ngũ cốc nảy mầm như đại mạch, yến mạch, lúa mì
mạch đen…
– Vi sinh vật: các loại xạ khuẩn, vi khuẩn, nấm sợi, nấm men…
• Trong thực tế người ta thường thu nhận enzyme cellulase từ vi sinh vật
và các chủng vi sinh vật thường sử dụnglà:
– Nấm mốc: Aspergillus niger, Aspergillus oryzae, Aspergillus
candidus…
– Xạ khuẩn: Actinomyces griseus, Streptomyces reticuli…
– Vi khuẩn: Acetobacter xylinum, Bacillus subtilis, Bacillus pumilis…
24
d)Ứng dụng trong sản xuất bia.
Tham gia phân hủy các polysacharide không phảiglucide
Bổ sung enzyme trên vào trong quá trinh đường hóa hàm lượng đường
glactose, arabinose, cylose, glucose tăng lên
Hệ enzymecelluase được coi như biện pháp tăng cường khả năng đường
hóa và làm tăng hiệu suất thu cồn sau lên men.
II.2.7. Các enzyme khác ( sitase, lipase, phytase)
–
Sitase: khả năng hoạt động của enzime sitase quyết định khả năng nẩy mầm.
trong quá trình ươm mầm nhóm enzyme sitase làm thay đổi cấu trúc giữa lớp vỏ
–
ngăn cách giữa vỏ trấu và nội nhũ.
Lipase là enzyme xúc tác cho phản ứng thủy phân triacylgycerol ( dầu thực vật)
Phytase trong hạt nảy mầm phytase có tác dụng phân giải phytin
25
ta chưa quan tâm tới việc sử dụng enzyme trong quy trình sản xuất. Xuất pháttừnhững nguyên do trên nhóm em chọn đề tài “ Ứng dụng của enzyme trong sản xuấtbia ” với mong ước những ứng dụng của enzyme sẽ được sử dụng rộng rãitrong việc sản xuất bia. II.NỘI DUNGII. 1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ bia hiện nayII. 1.1 Trên thế giớiĐối với những nước có nên công nghiệp tăng trưởng, đời sống kinh tế tài chính cao thìcao thì bia được sử dụng như một loại nước giải khát thông dụng. Hiện nay trên quốc tế có trên 25 nước sản xuất bia với sản lượng trên 100 tỉ lít / năm trong đó : Mỹ, Đức mỗi nước sản xuất xấp xỉ 10 tỉ lít / năm, TrungQuốc 7 tỉ lít / nămLượng bia tiêu thụ tăng hầu hết khắp càng vùng, ngoại trừ vùng ĐịaTrung Hải, đẩy lượng tiêu thụ trên toàn quốc tế tăng theo. Nhưng lượng tăngđáng kể nhất là Trung Quốc, Thailand, Philippin với vận tốc tăng đến 11,2 %. Châu Á Thái Bình Dương là một trong những khu vực lượng bia tiêu thụ đang tăng lênnhanh, những nhà nghiên cứu thị trường bia của quốc tế đánh giá và nhận định rằng châu Áđang dần giữ vị trí đứng đầu về tiêu thụ bia trên quốc tế. Trong khi sản xuất bia ở châu Âu có xu thế giảm, thì châu Á, trước kiacó mức tiêu thụ bia trên đầu người thấp thì đến nay tăng trung bình 6,5 % / năm. Thailand có mức tăng trung bình cao nhất 26,5 % / năm, tiếp theo là philippin22, 2 % / năm, Malaysia 21,7 % / năm, Indonexia 17,7 % / năm. Đấy là những nướccó vận tốc tăng nhanh trong khu vực. Thị trường bia Nhật Bản chiếm 66 % thị trường bia khu vực với 30,9 tỉUSD. Năm 1939 sản lượng bia ở Nhật Bản là 30 triệu lít và mức tiêu thụ đầungười tương tự ở Nước Ta lúc bấy giờ, năm 1960 sản lượng bia vượt quá 100 triệu lít, đến năm 1991 mức tiêu thụ trung bình đầu người là 55,6 lít / người / năm. Lượng bia tiêu thụ trong năm 2004 đã đạt trên 6500 triệu lít. Công nghiệp bia của Trung Quốc tăng trưởng là nguyên do đa phần thúcđẩy sự tăng trưởng của ngành bia châu Á. Từ năm 1980 – 1990 sản lượng bia tăngtừ 69,8 triệu lít lên 1230 triệu lít, tức tăng 17 lần. Thời kỳ từ 1981 – 1987 mứctăng trưởng trên 20 %. Đến năm 2004, tổng lượng bia tiêu thụ ở Trung Quốc là28640 triệu lít, xếp thứ hạng tiên phong trên quốc tế. Tổng lượng bia tiêu thụ của những nước khu vực châu Á trong năm 2004 đạt43147 triệu lít, tăng 11,2 % so với năm 2003. II. 1.2. Tại Việt NamBia được đưa vào Nước Ta từ năm 1890 cùng với sự xuất hiện của nhà máybia TP HCM và nhà máy sản xuất bia Thành Phố Hà Nội, như vậy ngành bia Nước Ta có lịch sử vẻ vang trên100 năm. Hiện nay nhu yếu của thị trường, chỉ trong một thời hạn ngắn, ngành sảnxuất bia có những bước tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ trải qua việc góp vốn đầu tư và mở rộngcác xí nghiệp sản xuất bia đã có từ trước và thiết kế xây dựng những nhà máy sản xuất bia mới thuộc Trungương và địa phương quản trị, những xí nghiệp sản xuất lien doanh với những hãng quốc tế. Công nghiệp bia tăng trưởng kéo theo sự tăng trưởng của những ngành sản xuất khác. Ngành bia là một trong những ngành có mức thuế TTĐB cao lên hàngnăm nộp vào ngân sách nhà nước một lượng đáng kể + Tình hình sản xuất bia trong nướcNăm năm trở lại đây, do tác động ảnh hưởng của nhiều yếu tố như vận tốc tăng trưởngGDP, vận tốc tăng dân số, vận tốc đô thị hóa, vận tốc góp vốn đầu tư … mà ngành côngnghiệp bia đã tăng trưởng với vận tốc cao. Chẳng hạn như năm 2003, sản lượng biađạt 1290 triệu lít, tăng 20,7 % so với năm 2002, đạt 79 % so với hiệu suất thiếtkế, tiêu thụ trung bình đầu người đạt 16 lít / năm, nộp ngân sách nhà nướckhoảng 3650 tỷ đồng. + Về số lượng cơ sở sản xuấtSố lượng cơ sở sản xuất giảm xuống so với những năm cuối thập niên1990, đến năm 2003 chỉ còn 326 cơ sở sản xuất so với 469 cơ sở tính từ năm1998. Điều này là do nhu yếu về chất lượng bia, về mức độ vệ sinh bảo đảm an toàn thựcphẩm ngày càng cao, đồng thời do sự Open của nhiều doanh nghiệp bia lớncó thiết bị tân tiến, thiết bị tiên tiến và phát triển nên có sự cạnh tranh đối đầu nóng bức, nhiều cơ sở sảnxuất quy mô nhỏ, chất lượng thấp không đủ năng lực cạnh tranh đối đầu đã phá sảnhoặc chuyển sang sản xuất loại sản phẩm khác. Trong những cơ sở sản xuất bia đó, cóSabeco chiếm sản xuất trên 200 triệu lít / năm, Habeco hiệu suất hơn 100 triệulít / năm, 15 nhà mayys bia có hiệu suất trên 15 triệu lít / năm và khoảng chừng 165 cơsở sản xuất có năng lượng dưới 1 triệu lít / nămHai tổng công ty Bia – Rượu-Nước giải khát Thành Phố Hà Nội và Hồ Chí Minh là 2 đơnvị góp phần tích cực và giữ vai trò chủ yếu trong ngành bia. Theo báo cáo giải trình củacác tỉnh thành phố thường trực TW và của hai tổng công ty, riêng năm2003, lệch giá của ngành Bia Rượu Nước giải khát đạt 16497 tỷ đồng, nộpngân sách nhà nước 5000 tỷ đồng, tạo điều kiện kèm theo việc làm và thu nhập ổn đinhcho trên 20000 lao động. sản lượng bia tiêu thụ toàn nước đạt 1290 triệu lít, 78,8 % hiệu suất phong cách thiết kế trong đó Habeco và Sabeco đạt 472,28 triệu lít ( chiếm36, 61 % toàn ngành bia ). Hai tổng công ty đã phát huy hết hiệu suất, phải giacông tại một số ít địa phương nhằm mục đích phân phối nhu yếu ngày càng tăng của ngườitiêu dùng + Về tên thương hiệu biaNhững tên thương hiệu bia sản xuất tại việt nam đang chiếm lợi thế, đứng vứng trênthị trường và có năng lực liên tục tăng trưởng mạnh trong quy trình hội nhập, đólà : Hồ Chí Minh, TP HCM special, 333, TP. Hà Nội, Heineken, Tiger, Halida … Lượng biathuộc những tên thương hiệu này đạt 713,8 triệu lít chiếm 55,24 % thị trường tiêu thụ. Mảng thị trường bia hạng sang cũng đã Open một số ít loại bia nhập khẩu và cácnhà máy bia tươi ( tại TP.HN, cũng như thành phố Hồ Chí Minh có trên 10 nhàhàng bia tươi ) với sản lượng nhỏ nhưng đang ngày càng được ưu thích. + Về trình độ công nghệ tiên tiến và thiết bị : Các xí nghiệp sản xuất bia có hiệu suất trên 100 triệu lít / năm đều có mạng lưới hệ thống thiếtbị tân tiến, tieentieens nhập khẩu từ những nước có nền công nghiệp sản xuất biaphát triển như : Đức, Đan Mạch … Các xí nghiệp sản xuất bia có hiệu suất trên 20 triệu lít / năm cho đến nay đã đầu tư chiều sâu, thay đổi thiết bị, tiếp thu trình độ côngnghệ tiên tiến và phát triển vào sản xuất + Về nguyên vật liệu cho ngành biaNăm 2003, kim ngạch nhập khẩu nguyên vật liệu cho ngành sản xuất bia ( hầu hết là malt và hoa houblon ) khoảng chừng 76 triệu Usd. Tổng công ty Habeco đãthử thử nghiệm trồng cây đại mạch ở một số ít nơi nhưng chưa có tác dụng do sựkhông tương thích về thổ nhưỡng và khí hậu. hiện tại, đã có một xí nghiệp sản xuất sản xuấtmalt đại mạch với hiệu suất trên 50000 tấn / năm và có năng lực lan rộng ra nên100000 tấn / nămII. 1.3 : Quy trình sản xuất biaNguyên liệuXử lý nguyên liệuNghiền nguyên liệuNấu nguyên liệuLọc tách bã maltBã maltHoublon hóaLắng trong và làm lạnhMen giốngLên men chínhLên men phụ và tàng trữ bia nonLọc trong biaỔn định biasau khi lọcChiết chaiThanh trùngBia thành phẩmBã hoaII. 2. Enzyme dùng trong sản xuất biaII. 2.1. Enzyme – amylasea ) Cấu tạo : Enzyme α-Amylase là proteincó phân tử lượng thấp, thường nằm trongkhoảng50. 000 đến 60.000 Dal. Có một số ít trường hợp đặc biệt quan trọng như α-Amylase từloài vi trùng Bacillus macerans có phân tử lượng lên đến 130.000 Dal. Đến nayngười ta đã biết rất rõ cácchuỗi acid amin của 18 loại α-Amylase nhưng chỉ có 2 loại α-Amylase là taka-Amylase từ Apergillus orysee và α-Amylase của tụy lợnđược nghiên cứu và điều tra kỹ về hình thể khoảng trống cấutrúc bậc 3. Mới đây những nghiêncứu về tính như nhau của chuỗi mạch acid amin và về vùng kịnước cho thấy cácchuỗi mạch acid amin của toàn bộ những Enzyme α-Amylase đều có cấu trúc bậc 3 tựa như nhauCấu trúc khoảng trống của α-Amylaseb. Cơ chế tác dụng : α-Amylase từ những nguồn khác nhau có nhiều điềm rất giống nhau. αAmylase có năng lực phân cắt những link α-1, 4 – glucoside nằm ở phía bên trongphân tử cơ chất ( tinh bộthoặc glycogen ) một cách ngẫu nhiên, không theo mộttrật tự nào cả. α-Amylase không chỉthủy phân hồ tinh bột mà nó thủy phân cảhạt tinh bột nguyên tuy nhiên với vận tốc rất chậm. Quá trình thủy phân tinh bột bởi α-Amylase là quy trình đa tiến trình : + Ở quá trình đầu ( tiến trình dextrin hóa ) : Chỉ một số ít phân tử cơ chất bịthủy phân tạo thành một lượng lớn dextrin phân tử thấp ( α-dextrin ), độ nhớt củahồ tinh bột giảm nhanh ( những amylose và amylopectin đều bị dịch hóa nhanh ). + Sang quy trình tiến độ 2 ( tiến trình đường hóa ) : Các dextrin phân tử thấp tạothành bị thủy phân liên tục tạo ra những tetra-trimaltose không cho màu với iodine. Các chất này bị thủy phân rất chậm bởi α-Amylase cho tới disaccharide vàmonosaccharide. Dưới công dụng của α-Amylase, amylose bị phân giải khá nhanhthành oligosaccharide gồm 6 – 7 gốc glucose ( vìvậy, người ta cho rằng αAmylase luôn phân cắt amylose thành từng đoạn 6 – 7 gốcglucopiranose 1 ). + Sau đó, những poliglucose này bị phân cắt liên tục tạo nên những mạchpolyglucosecolagen cứ ngắn dần và bị phân giải chậm đến maltotetrose, maltotriose và maltose. Qua mộtthời gian công dụng dài, loại sản phẩm thủy phân củaamylose chứa 13 % glucose và 87 % maltose. Tác dụng của α-Amylase lênamylopectin cũng xảy ra tương tự như nhưng vì không phân cắt được link α-1, 6 glycoside ở chỗ mạch nhánh trong phân tử amylopectin nên dù có chịu tác dụnglâu thì loại sản phẩm ở đầu cuối, ngoài những đường nói trên ( 72 % maltose và 19 % glucose ) còn códextrin phân tử thấp và isomaltose 8 %. Tóm lại, dưới tính năng của α-Amylase, tinh bột hoàn toàn có thể chuyển thànhmaltotetrose, maltose, glucose và dextrin phân tử thấp. Tuy nhiên, thông thườngα-Amylase chỉ thủy phântinh bột đa phần thành dextrin phân tử thấp không chomàu với Iodine và một chút ít maltose. Khảnăng dextrin hóa cao của α-Amylase làtính chất đặc trưng của nó. Vì vậy, người ta thường gọi loại Amylase này làAmylase dextrin hóa hay Amylase dịch hóa. c. Nguồn thu nhận – Động vật : có trong tụy tạng của động vật hoang dã. – Thực vật : + Đại mạch, lúa : Qúa trình nảy mầm của đại mạch là quy trình tiến độ chuyểnhóa enzyme từ trạng thái không hoạt động giải trí sang trạng thái hoạt động giải trí, hạt đạimạch trước khi ngâm không có hoạt lực của emzyme α-Amylase, khi trải qua 394 ngày trong tiến trình nảy mầm thì hoạt lực đạt tới mức cực lớn vào ngày thứ 7. Sau đó giảm dần. – Vi sinh vật + Ngày nay do lợi thế về nhiều mặt vi sinh vật trở thành nguồn thuenzyme α-Amylase chủ yếu. + Các giống nấm sợi thường dùng là giống nấm sợi Asp. niger, Asp. oryzase, Asp. awamori + Nấm men và giả nấm men thuộc những giống : Candida, Saccharomyces. + Vi khuẩn : gồm nhóm ưa nhiệt ( Bac. licheniformis Bac. stearothermophilu ) và nhóm ưa ẩm ( Bac. subtilis Bac. amyloliquefaciens ) d. Phương pháp thu nhận. * Phương pháp thu từ malt đại mạch. * Phương pháp thu nhận từ Vi sinh vật : – Sự tổng hợp enzyme amylase không những phụ thuộc vào vào đặc thù ditruyền của vi sinh vật mà còn nhờ vào vào việc tuyển chọn những điều kiện kèm theo nuôicấy đặc hiệu, ngoài những những điều kiện kèm theo lý hóa trong quy trình nuôi cấy cũng đóngvai trò quan trọng. – Những yếu tố ảnh hưởng tác động : thành phần môi trường tự nhiên, đặc thù cơ lý củamôi trường, độ tiệt trùng, nhiệt độ bắt đầu, độ thoáng khí nhiệt độ và pH môitrường. – Có hai chiêu thức nuôi Vi sinh vật : + Nuôi vsv tạo α – amylase bằng giải pháp mặt phẳng + Nuôi vsv tạo α – amylase bằng chiêu thức bề sâu. – Quy trình công nghệ tiên tiến sản xuất α – amylase từ Asp. oryzase10Quy trinh công nghệ tiên tiến. Phương pháp thu nhận từ động vật hoang dã : 98 % tụy tạng được cấu trúc từ tế bàongoại bào tiết hoặc là tế bào tuyến. Các tế bào này tiết enzyme tiêu hóa vàotrong tế bào. d. Ứng dụng trong sản xuất bia. Trong công nghệ tiên tiến sản xuất bia truyền thống lịch sử những nước phương Tây chủ yếusử dụng enzim α – amylase của malt để thủy phân tinh bột trong malt, sau đóđến quá trình rượu hóa bởi nấm men Saccharomyces. Cơ sở khoa học của việcsử dụng malt là khi đại mạc chuyển từ trạng thái hạt sang trạng thái nảy mầm, enzyme α – amylase sẽ được tổng hợp và enzyme này sẽ thủy phân tinh bột cótrong hạt tạo ra nguồn năng lượng và vật chất cho sự nảy mầm. Enzyme α – amylase ảnh hưởng tác động vào quá trình đường hóa biến hóa tinh bộtthành những dextrin và maltose. Qúa trình nảy mầm xảy ra trong quá trình nấu biaTrong quy trình này malt sau khi được nghiền sẽ hòa tan chung với nước theomột tỷ suất thích hợp dưới công dụng của những enzyme ở nhiệt độ nhất định sẽ đượcđường hóa trong nồi nấu malt. 11T rong quá trình lên men tiếp theo, những chát đường, dextrin có phân tửthấp sẽ được chuyển hóa thành rượu etylic, C02 và 1 số ít loại sản phẩm phụ kháctạo thành bia theo nhu yếu kỹ thuật và chất lượng mẫu sản phẩm. II. 2.2. Enzyme – amylasea ) Tính chất vật lý : Chỉ có trong malt, kém bền ở nhiệt độ cao, bị vô hoạt trọn vẹn ở 70 ◦ C.Kém bền khi có Ca2 + Bị ngưng trệ bởi Cu2 +, Hg2 +, urease, iodoacetamide, iodine, ôzon … pH tối thích trong dung dịch tinh bột thuần khiết là 4,6 còn trong dung dịch nấu ( khôngsôi ) là 5,6 Nhiệt độ tối thích trong dung dịch tinh bột thuần khiết là 40 – 50 ◦ C còn trongb ) dịch nấu tinh bột là 60 – 65 ◦ CCấu tạo : Enzyme β – amylase là một albuminTâm xúc tác của nó chứa nhóm – SH và – COOH cùng với vòng imizadol củacác gốc histidinLà một enzyme ngoại phân ( exoenzyme ), có ái lực với những link 1,4 – c ) d ) glycodise những đầu không khử của một mạch link – 1,4 glycodiseNguồn gốc : Chỉ thông dụng ở giới thực vật, đặc biệt quan trọng có ở hạt nảy mầm ( malt ) Trong vi trùng thì không cóCòn trong nấm sợi ( nấm mốc ) thì cho đến nay vẫn chưa chứng tỏ hoàn toànTác dụng trong quy trình sản xuất bia : Chủ yếu trong quy trình tiến độ đường hóa : biến hóa tinh bột thành những dextrin vàmaltoseCơ chế : 12 + Enzyme β – amylase xúc tác sự thủy phân những link 1,4 – glucan trongtinh bột, glycopen và saccharide, phân cắt tuần tự từng nhóm maltose từ đầukhông khử của mạch. Maltose được hình thành do sự xúc tác của β – amylase. + Hầu như không thủy phân hạt tinh bột nguyên mà chỉ thủy phân tinh bộthồ hóa. + Có năng lực thủy phân 100 % amylose thành maltose và 54 – 58 % amylopectin thành maltose + Khi gặp link α – 1,4 – Glycoside đứng kế cận link α – 1,6 – glycoside thì nó ngừng công dụng. Phần còn lại không bị tính năng gọi là β – dextrin ( nó chứa nhiều link 1,6 – glycoside và cho màu tím đỏ với iốt ) Nếu có cả α và β – amylase cùng đồng thời tính năng lên tinh bột thìtinh bột bị phân hủy đến 95 %. II. 2.3. enzyme glucoamylasea. Cấu tạo hóa học enzym glucoamylase – Enzym glucoamylase có mã số EC : 3.2.1. Tên khoa học : glucan 1,4 – αglucohydrolase. Ngoài ra enzym glucoamylase còn có những tên gọi khác như : amyloglucosidase γ – amylase ; lysosomal α – glucosidase ; acid maltase ; exo1, 4 – α-glucoside ; glucose amylase ; γ – 1.4 – glucan glucohydrolase. Glucoamylase I và glucoamylase II. Cả hai dạng glucoamylase đều lànhững chuổi glyco – protein, trong phân tử có chứa D – gluco, D – maltose, D – galactose, thành phần carbonhydrate trong phân tử glucoamylase I chiếmkhoảng 18 %, còn với phân tử glucoamylase II là 10 %. Phân tử carbonhydrate tham gia trong thành phần cấu trúc enzyme glucoamylaseđóng vai trò giúp không thay đổi cấu trúc enzyme. Ngoài ra chúng còn giúp tạo liên kếtvới cơ chất là những phân tử polysaccharide giúp cho vùng xúc tác trên enzym gầnvới cơ chất hơn, do đó quy trình thủy phân của enzyme thuận tiện hơn. Thànhphần acid amine tham gia tạo thành chuổi polypeptid trong phân tửglucoamylase cũng khác nhau khi enzyme glucoamylase được thu nhận từ cácnguồn khác nhau. Số lượng acid amine tham gia vào chuổi polypeptid cấu tạonên phân tử glucoamylase thu nhận từ nấm mốc Aspergillus niger vàAspergillus awamori khoảng chừng 650 – 700 acid amin. Các acid amin chính tham gia13trong TT hoạt động giải trí của enzyme glucoamylase gồm có acid glutamic, tryptophan, tyrosin, asparagin, acid aspatic, lysin, serin. Trong đó acid glutamicở vị trí thứ 179 và 400 đóng vai trò chính trong việc xúc tác thủy phân link O – glucozit của cơ chất. Sơ đồ cấu trúc TT hoạt động giải trí của enzyme glucoamylaseb. Cấu trúc khoảng trống enzym glucoamylaseTrong khoảng trống, phân tử glucoamylase được chia làm ba vùng với chứcnăng riêng không liên quan gì đến nhau : – Vùng SBD ( Starch binding domain : vùng kết nối với tinh bột ) có kíchthước khoảng chừng 30 A0. Giữ tính năng link với phân tử cơ chất. – Vùng CD ( Catalyse Domain : vùng xúc tác ) có size khoảng chừng 60 A0, giữ tính năng xúc tác phản ứng thủy phân link O – glucozit. – Vùng Linker có độ dài khoảng chừng 100 A0 link hai vùng trên lại với nhau. 14S ơ đồ cấu trúc khoảng trống Enzyme Glucoamylasec. Các đặc thù của glucoamylaseĐặc trưng phản ứng : enzyme glucoamylase xúc tác phản ứng thủy phânliên kết 1,4 – 1,6 o – glucoside và tách tuần tự từng gốc gluco từ đầu không khửcủa chuỗi polysaccharide. Enzym glucoamylase xúc tác phản ứng thủy phân tinhbột và tách tuần tự từng gốc glucose từ đầu không khử của chuổipolysaccharide. Gốc gluco từ đầu không khử được gọi là glycone, còn chuổioligosaccharide sau khi gluco được tách ra thì được gọi là Alglycone. Cơ chế xúc tác thủy phân link o – glucozit là do hoạt động giải trí chủ yếucủa một cặp acid amin đóng vai trò như một cặp acid – base. Khi tương tác vớicơ chất, acid glutamic ở vị trí thứ 179 đóng vai trò như một chất xúc tác acid, nósẽ proton hóa oxi – glycosidic ( phân tử oxi ở vị trí link o – glucozit ). Acidglutamic ở vị trí thứ 400 đóng vai trò như một chất xúc tác base, acid amin nàysẽ lôi cuốn và tạo link với proton H + của phân tử nước làm giải phóng gốcOH -, gốc OH – này sẽ tiến công vào vị trí carbon glycosidic và như vậy link o – glucozit của phân tử cỏ chất sẽ bị phá vỡ. d. Nguồn thu nhận. – Glucoamylase được những nhà khoa học Nhật tách ra lần tiên phong từAspergillus awamori ( Katihara, Kurushima, 1966 ). Sau đó được tìm thấy ởRhizopus delemar, Aspergillus niger, Aspergillus oryzae và những nhóm vi sinh vậtkhác cũng như ở mô động vật hoang dã. 15 – Glucoamylase từ nấm mốc là những protein có khối lượng phân tử lượngdao động rất lớn từ 27.000 đến 112.000 Dal, tuỳ thuộc vào nguồn gốc củaenzymee. Qúa trinh thu nhận. Sản xuất và thu nhận enzyme glucoamylase bằng giải pháp lên menchim, nguồn vi sinh vật là Aspergillus niger ( nấm mốc ). Quy trình công nghệNguyên liệuTrộnTiệt trùngNấm mốcCấy giốngNhân giốngLên menNghiềnNướcTrích liBãLi tâmBãSiêu lọc UFChất độnSấy thăng hoaPhối trộnBao bìĐóng góiChế phẩm enzymeQuy trình công nghệ16 – Nguyên liệu : Nguyên liệu cho thiên nhiên và môi trường lên men : chọn môi trườngcó 65 % bột ngô, 0.9 % NaNO3, 0.005 % MgSO4 và 10 % nước chiết mầm đạimạch. – Trộn : Mục đích công nghệ tiên tiến : chuẩn bị sẵn sàng cho quy trình lên men. Quá trìnhtrộn làm cho nguyên vật liệu phân tán đều vào nhau. – Tiệt trùng : Quá trình tiệt trùng sẽ làm giảm lượng vi sinh vật có trongnguyên liệu, tức là giảm những yếu tố cạnh tranh đối đầu và những yếu tố làm biến hóa thànhphần dinh dưỡng môi trường tự nhiên lên men, nhằm mục đích tạo điều kiện kèm theo tốt cho AspergillusNiger tăng trưởng và tạo hệ enzyme glucoamylase. Sử dụng thiết bị tiệt trùng dạngbản mỏng dính, tiệt trùng trong thời hạn 20 – 30 phút ở 121 oC – Quá trình nhân giống : Độ ẩm của môi trường tự nhiên : 60 – 65 %, nhiệt độ 28 – 350 C, pH tối ưu : 4-6. 5, thời hạn 30 – 36 giờ. + Trong phòng thí nghiệm : Ở số lượng nhỏ. Môi trường nhân giống đượcđưa tiệt trùng, sau đó cấy giống vi sinh vật vào thiên nhiên và môi trường và cho sinh trưởng ởđiều kiện thông thường. + Trong phân xưởng : Ta sử dụng thiết bị lên men hình tròn trụ, có cánh khuấy, bộ phận sục khí và lớp vỏ điều nhiệt. – Cấy giống : Mục đích công nghệ tiên tiến : Chuẩn bị cho quy trình lên men thunhận chế phẩm enzyme glucoamylase. Các đổi khác của nguyên vật liệu : Không cóbiến đổi đáng kể. – Lên men : lên men nhằm mục đích thu nhận chế phẩm enzyme glucoamylase. Thiếtbị lên men hình tròn trụ, có canh khuấy, có hệ hống sục khí. Quá trình nuôi cấy nấmmốc thường lê dài từ 35 – 48 giờ tùy thuộc vào thời hạn triển khai xong việc tạora enzyme. Nhiệt độ 28 – 35 o C, không kí cần sục vào môi trường tự nhiên 30 – 40 m 3 / m3x giờ. – Nghiền : nếu nguyên vật liệu Open nhiều hạt kích cỡ lớn do vón cụcbởi nhiệt độ, ta sẽ phải cho nguyên vật liệu qua máy nghiền. – Trích li : Mục đích công nghệ tiên tiến : Khai thác, dùng nước để chiết rút enzymeglucoamylase trong canh trường17 – Li tâm : Tách sinh khối ra khỏi dung dịch sau trích ly. Li tâm 4 – 5 phútở nhiệt độ 15 – 20 o C.Siêu lọc UF : Đây là quá trinh tách và tinh sạch enzyme Dịch thu được saukhi phân riêng bằng membrane đã được tách một phần nước ( cô đặc ) chuẩn bịcho quy trình sắc ký trao đổi ion. Sử dụng thiết bị có áp lực đè nén thẩm thấu : 6.9 bar, đường kinh mao quản trung binh từ 2 đến 50 nm. – Sấy thăng hoa : Mục đích : quy trình sấy sẽ tách bớt nước ra khỏi bánthành phẩm, chuyển nguyên vật liệu sang dạng rắn. Bảo quản : quy trình sấy làmgiảm giá trị hoạt độ của nước, ức chế hoạt động giải trí của enzyme, chế phẩm enzymekhông bị đổi khác trong quy trình dữ gìn và bảo vệ. – Phối trộn Mục đích : tiến trình này ta trộn những chất dữ gìn và bảo vệ và chất ổnđịnh hoạt tính enzyme vào để dữ gìn và bảo vệ và hoàn thành xong loại sản phẩm. – Đóng gói : Mục đích : hoàn thành xong loại sản phẩm, thuận tiện trong dữ gìn và bảo vệ vàvận chuyển, thương mại. f. Ứng dụng trong quá trình sản xuất biaChế phẩm glucoamylase từ nấm mốc Aspergillus, Rhizopus … được thaythế malt làm tác nhân đường hóa tinh bột trong sản xuất bia từ nguyên vật liệu cóbột. Việc sử dụng chế phẩm amylase vi sinh vật thay malt đã tiết kiệm ngân sách và chi phí đượchàng vạn tấn đại mạch loại tốt, giảm giá tiền, rút ngắn quá trình sản xuất. Trong tiến trình đường hóa, glucoamylase chiếm vị trí số 1 và đóngvai trò quyết định hành động trong việc chuyển hóa tinh bột thành đường để lên men, do đócần chọn chủng vi sinh vật có năng lực sản sinh nhiều enzym glucoamylase. Trong sản xuất rượu người ta thường dùng hỗn hợp canh trường mặt phẳng củaAspergillus Usamii và Aspergillus Balatae. Nếu coi tổng lượng đường maltose, glucose, saccharose, fructose là 100 % thì khi đường hóa bằng malt ta có 71 % maltose, 24 – 28 % glucose, còn khiđường hóa bằng amylase nấm mốc sẽ có 14 – 21 % maltose, 80 – 85 % glucose, mẫu sản phẩm ở đầu cuối của sự thủy phân bởi amylase nấm mốc hầu hết là glucose – đường dễ lên men, do vậy sự lên men bia xảy ra nhanh hơnII. 2.4. Enzyme protease18a ) Khái quát chung : Protease là chất xúc tác thủy phân protein tạo thành những phân tử thấpvà những amino acid. Hay nói cách khác, protease là những enzyme phá vỡ liên kếtpeptid giữa những amino acid của protein. Chúng không chỉ có ý nghĩa cho quátrình sinh trưởng, sinh sản của mọi sinh vật mà còn đóng vai trò rất quan trọngtrong công nghệ tiên tiến chế biến thực phẩm, trong y học, trong công nghệ tiên tiến gen và bảovệ thiên nhiên và môi trường. Protease là một trong những enzyme được ứng dụng rất nhiềutrong mọi nghành. Đặc biệt là trong công nghệ tiên tiến thực phẩm, protease đã cónhững góp phần rất to lớn trong việc ship hàng và nâng cao đời sống của conngười. Hiện nay trên quốc tế, công nghệ tiên tiến thu nhận protease từ vi sinh vật đangcòn tăng trưởng, tìm tòi về năng lực ứng dụng vô vàn của enzyme protease. Cấu trúc khoảng trống của enzyme đób ). Phân loạiChia protease thành hai loại : endopeptidase và exopeptidaseEndopeptidase gồm : aminopeptidase và Carboxypeptidase + Aminopeptidase : xúc tác thủy phân link peptid ở đầu N tự do củachuỗi polypeptid để giải phóng ra một amino acid, một dipeptid hoặc mộttripeptid. + Carboxypeptidase : Xúc tác thủy phân liêm kết peptid ở đầu C của chuỗipolypeptid và giải phóng ra một amino acid hoặc một dipeptid. Exopeptidase gồm : Serin proteinase ; cystein proteinase ; Aspartic proteinase vàMetallo proteinase + Serin proteinase : Là những proteinase chứa nhóm – OH của gốc serintrong TT hoạt động giải trí và có vài trò đặc biệt quan trọng quan trọng so với hoạt độngxúc tác của enzyme. Nhóm này gồm có hai nhóm nhỏ là chymotrysin và19subtilisin. Các Serin proteinase thường hoạt động giải trí mạnh ở vùng kiềm tính và thểhiện tính đặc hiệu cơ chất tương đối rộng. + Cysteine proteinase : Các proteinase chứa nhóm – SH trong TT hoạtđộng. Cysteine proteinase gồm có những proteinase thực vật như papain, bromelin, một vài protein động vật hoang dã và proteinase ký sinh trùng. Các cysteine proteinase thườnghoạt động ở vùng pH trung tính, có tính đặc hiệu cơ chất rộng. + Aspartic proteinase : Hầu hết những aspartic proteinase thuộc nhóm pepsin. Nhóm pepsin gồm có những enzyme tiêu hóa như : pepsin, chymosin, cathepsin, renin. Các aspartic proteinase có chứa nhóm carboxyl trong TT hoạt độngvà thường hoạt động giải trí mạnh ở pH trung tính. + Metallo proteinase : Metallo proteinase là nhóm proteinase được tìmthấy ở vi trùng, nấm mốc cũng như những vi sinh vật bậc cao hơn. Các metalloproteinase thường hoạt động giải trí vùng pH trung tính và hoạt độ giảm mạnh dưới tácdụng của EDTA.Ngoài ra, protease được phân loại một cách đơn thuần hơn thành ba nhóm : + protease acid : pH 2-4 c ) + protease trung tính : pH 7-8 + protease kiềm : pH 9-11 Thu nhậnEnzyme là protein được sinh vật tổng hợp trong tế bào và là chất tham giaxúc tác cho mọi phản ứng sinh học. Chính vì vậy, mọi sinh vật đều được xem lànguồn thu nhận để sản xuất enzyme. Nhưng vẫn hầu hết là ba nguồn chính : Động vật, thực vật và vi sinh vật. Protease phân bổ ở thực vật, động vật hoang dã, vi sinh vật. Tuy nhiên nguồnenzyme ở vi sinh vật phong phú và đa dạng nhất, có ở hầu hết những vi sinh vật như vi trùng, nấm mốc và xạ khuẩn … hoàn toàn có thể nói vi sinh vật là nguồn nguyên vật liệu thích hợpnhất để sản xuất enzyme ở quy mô lớn dùng trong công nghệ tiên tiến và đời sống. Enzyme Protease từ nguồn động vật hoang dã và thực vật được loài người khai thácvà ứng dụng hàng ngàn năm để sản xuất và ship hàng trong đời sống. Nhưnghiện nay lượng enzyme thu nhận từ thực vật và động vật hoang dã được thay thế sửa chữa dần bằngenzyme vi sinh vật. enzyme thu nhận từ những nguồn này thường rất khó và hiệu20quả kinh tế tài chính không cao. Nguồn enzyme từ vi sinh vật từ từ thay thế sửa chữa enzyme từđộng vật và thực vật do hàng loạt những ưu điểm về sinh lý vi sinh vật và về kỹthuật sản xuất được liệt kê như sau : Vi sinh vật có năng lực chuyển hóa một khối lượng cơ chất lớn hơn khối lượngcơ thể chúng • ang ngàn lần sau một ngày đêm. Enzyme thu nhận từ vi sinh vật có hoạt tính cao. Tốc độ sinh sản của vi sinh vật mạnh, trong thời hạn ngắn hoàn toàn có thể thu đượclượng sinh khối vi sinh vật rất lớn, giúp trong một thời hạn ngắn thu được mộtlượng enzyme nhiều hoặc lượng những mẫu sản phẩm trao đổi chất cao. Một đặc thù riêng có của vi sinh vật đó là khung hình nhỏ bé nên việc quản lý và vận hành, trấn áp thiết bị lên men trong quy trình sản xuất đơn thuần hơn rất nhiều. Vi sinh vật là giới sinh vật thích hợp cho sản xuất theo quy mô công nghiệp : Trong sản xuất, quy trình sinh trưởng, tăng trưởng và sinh tổng hợp enzyme của visinh vật trọn vẹn không nhờ vào vào khí hậu bên ngoài. Trong khi đó, sảnxuất enzyme từ nguồn thực vật và động vật hoang dã không hề đưa vào quy mô côngnghiệp được. Nguồn nguyên vật liệu dùng sản xuất enzyme theo quy mô công nghiệp rẽ tiền và dễkiếm, không riêng gì có ý nghĩa về mặt kinh tế tài chính mà còn có ý nghĩa rất lớn về mặt môitrường sống. vi sinh vật không yên cầu quá khắc nghiệt những yếu tố dinh dưỡng củamôi trường, nhất là những vi sinh vật tổng hợp enzyne. Chính vì vậy enzyme đượcsản xuất từ vi sinh vật thường rẻ tiền hơn enzyme từ những nguồn khác. Vi sinh vật hoàn toàn có thể sinh tổng hợp cùng một lúc nhiều loại enzyme khác nhauNhiều vi sinh vật có năng lực tổng hợp mạnh Protease, những enzyme này hoàn toàn có thể ởtrong tế bào hoặc được tiết vào thiên nhiên và môi trường nuôi cấy. Một số Protease ngoại bàođã sản xuất quy mô công nghiệp và được sử dụng thoáng đãng trong nhiều ngànhd ) công nghiệp, trong nông nghiệp và trong y học. Nguồn vi sinh vật thu nhận enzyme Protease đa phần gồm : vi trùng, nấm mốc, xạ khuẩn. Ứng dụng trong sản xuất bia. Trong sản xuất bia, chế phẩm protease làm tăng độ bền của bia và rútngắn thời hạn lọc, protease của A.oryrae dùng thủy phân protease trong hạt ngũcốc tạo điều kiện kèm theo cho giải quyết và xử lý bia tốt hơn. II. 2.5. Enzyme pullulanase21a ) Nguồn gốcEnzyme pullulanase có nguồn gốc từ vi trùng Aerbacteraerogenes vàKlebsiellab ) Đặc tính và chính sách xúc tác của pullulanase ( α-dextrin 6 – glucosidase ) Enzyme này hoàn toàn có thể thuỷ phân những link α-1, 6 của tinh bột, glycogen, pululan và những dextrin. Điều đáng quan tâm là sự xác định của những link α-1, 6 cóảnh hưởng lớn đến ảnh hưởng tác động của enzyme. Đặc biệt sự xuất hiện của hai link α1, 4 nằm liền kề bên link α-1, 6 là điều kiện kèm theo thiết yếu cho enzyme phân cắtliên kết này. Do đó pullulan chính là cơ chất lý tưởng của pullulanase, vì nó làmột phân tử không phân nhánh cấu trúc bởi những đơn vị chức năng maltotriose ( có hai liênkết α-1, 4 ) link với nhau bằng cầu nối α -, 6 glucoside. Pullulanase phân giảicác link α-1, 6 glucoside bị bao quanh tứ phía bởi những link α-1, 4. Nó còn cókhả năng thủy phân cả những dextrin phân tử thấp chỉ gồm có hai gốc maltose nốinhau bằng link α-1, 6 glucoside. Tác dụng hiệp đồng của α-amylase vàpullulanase làm dextrin này bị thủy phân trọn vẹn. Pullulanase có pH tối ưu là 5 7, nhiệt độ tối ưu là 10 – 50 oC. Ion Ca2 + hoạt hóa những enzyme này, trong khi đócác ion Hg2 +, Zn2 +, Cu2 +, Ag2 + và Co2 + lại có tính năng ngưng trệ. c ) Công thức cấu tạoCấu trúc khoảng trống của enzyme pullulanase22Công thức cấu tạod ) Ứng dụng trong sản xuất bia. Tham gia thủy phân link α – 1,6 glucoside những poly vào ligosaccharidePhân cắt liên kếtα – 1,6 glucoside trong trường hợp link này được bao quanhtất cả những pha nhờ link α – 1,4 glucosideDextrin có phân tử thấp, dễ bị pululanse phân hủy tạo thành từ 2 gốc maltose, nối với nhau bằng link α – 1,6 glucoside. Nếu sự kết hợpcủa α – amylase và pululanase, Dextrin sẽthủy phân hoàn toànII. 2.6. Enzyme Cellulasea ) Cấu trúc của enzyme cellulose : – Cellulase có thực chất là protein được cấu trúc từ những đơn vị chức năng là axit amin, những axit amin được nối với nhau bởi lien kết peptid – CO-NH -. – Ngoài ra, trong cấu trúc còn có những phần phụ khác, gồm một trungtâm xúc tác và một đuôi tận cùng, phần đuôi này xuất phát từ TT xúc tácvà được gắn them vùng glycosil hóa, cuối đuôi là vùng kết nối với cellulose ( CBD : cellulose binding domain ). Vùng này có vai trò tạo link với cellulosetinh thể. – CBD làm ngày càng tăng hoạt tính cellulase so với tinh thể cellulose. Sự cómặt của CBD sẽ tương hỗ cho enzyme cellulase triển khai việc cắt đứt nhiều liênkết trong cellulose tinh thể. 23 – Vùng kết nối với cellulose có cấu trúc khác với link thường thì củaprotein và việc đổi khác chiều dài của vùng glycosil hóa có tác động ảnh hưởng đến hoạttính xúc tác của enzyme. b ) Tính chất của enzyme cellulose : – Cellulase thủy phân cellulose tự nhiên và những dẫn xuất nhưcarboxymethyl cellulose ( CMC ) hoặc hydroxyethyl cellulose ( HEC ). – Cellulase cắt link β-1, 4 – glucosid trong cellulose, lichenin và những βD-glucan của ngũ cốc. – Độ bền nhiệt và tính đặc hiệu cơ chất hoàn toàn có thể khác nhau. – Cellulase hoạt động giải trí ở pH từ 3-7, nhưng pH tối thích trong khoảng chừng 4-5. – Nhiệt độ tối ưu từ 40-50 độ C. – Hoạt tính cellulose bị tàn phá trọn vẹn ở 80 độ C trong 10 đến 15 phút. – Cellulase bị ức chế bởi những mẫu sản phẩm phản ứng của nó như glucose, cellobiose và bị ức chế trọn vẹn bởi Hg. – Ngoài ra, cellulose còn bị ức chế bởi những ion sắt kẽm kim loại khác như Mn, Ag, Zn nhưng ở mức độ nhẹ. – Trọng lượng của enzyme cellulose biến hóa từ 30 – 110 KDa ( Begunin, 1990 ; Gilkes và tập sự, 1991 ). c ) Nguồn gốc của enzyme cellulase : • Được thu nhận từ những nguồn khác nhau : – Động vật : dịch tiết dạ dày bò, những nhóm thân mềm … – Thực vật : trong hạt ngũ cốc nảy mầm như đại mạch, yến mạch, lúa mìmạch đen … – Vi sinh vật : những loại xạ khuẩn, vi trùng, nấm sợi, nấm men … • Trong trong thực tiễn người ta thường thu nhận enzyme cellulase từ vi sinh vậtvà những chủng vi sinh vật thường sử dụnglà : – Nấm mốc : Aspergillus niger, Aspergillus oryzae, Aspergilluscandidus … – Xạ khuẩn : Actinomyces griseus, Streptomyces reticuli … – Vi khuẩn : Acetobacter xylinum, Bacillus subtilis, Bacillus pumilis … 24 d ) Ứng dụng trong sản xuất bia. Tham gia phân hủy những polysacharide không phảiglucideBổ sung enzyme trên vào trong quá trinh đường hóa hàm lượng đườngglactose, arabinose, cylose, glucose tăng lênHệ enzymecelluase được coi như giải pháp tăng cường năng lực đườnghóa và làm tăng hiệu suất thu cồn sau lên men. II. 2.7. Các enzyme khác ( sitase, lipase, phytase ) Sitase : năng lực hoạt động giải trí của enzime sitase quyết định hành động năng lực nẩy mầm. trong quy trình ươm mầm nhóm enzyme sitase làm đổi khác cấu trúc giữa lớp vỏngăn cách giữa vỏ trấu và nội nhũ. Lipase là enzyme xúc tác cho phản ứng thủy phân triacylgycerol ( dầu thực vật ) Phytase trong hạt nảy mầm phytase có tính năng phân giải phytin25
Source: https://mindovermetal.org
Category: Ứng dụng hay