Nhà khoa học cả đời có ‘nợ’ với côn trùng – VnExpress

Banner-backlink-danaseo
Có thời gian, hàng tháng trời không có bữa trưa, nhưng với GS Bùi Công Hiển đói và niềm mê hồn không có ranh giới khi ngồi nghiên cứu và phân tích mẫu côn trùng .GS Bùi Công Hiển, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia TP. Hà Nội được giới điều tra và nghiên cứu phong là người ‘ tiên phong nghiên cứu sinh lý học côn trùng ‘. Ở tuổi 80, ” gia tài ” ông có là bề dày những khu công trình nghiên cứu và điều tra nâng cao về côn trùng học ở Nước Ta .GS Bùi Công Hiển tại phòng làm việc. Ảnh: TH.GS Bùi Công Hiển tại phòng thao tác. Ảnh : NVCC .

Là sinh viên trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, sau được giữ lại làm giảng viên cho đến lúc nghỉ hưu, khi đó ông được phân công chuyên ngành sinh học phù hợp với sở thích “nên cả cuộc đời gắn với côn trùng như “cái nợ”, ông nói.

Chuyên môn sâu của GS Bùi Công Hiển là sinh lý học côn trùng, một nghành rất mới ở Nước Ta cách đây mấy chục năm. Nhớ lại thời gian trước khi rời quốc gia đi làm nghiên cứu sinh, chàng sinh viên năm ấy đến chào GS Đào Văn Tiến và xin quan điểm thầy để chọn hướng điều tra và nghiên cứu. ” Thầy Tiến có khuyên tôi nên chọn hướng điều tra và nghiên cứu về sinh lý học côn trùng. Đây là yếu tố ” xương xẩu “, ít người muốn học. Nhưng nếu hiểu biết sẽ giúp mình tăng trưởng nghiên cứu và điều tra khoa học tốt hơn “, ông kể .Với quan điểm của thầy cùng nhận thức khi học tập chính trị trước khi đến nước bạn là ” phải đón đầu quốc tế ” từ năm 1969, ông đã nhận luận án tiến sỹ với đề tài về Pheromon của một loài mọt. Đây là luận án Tiến sĩ tiên phong ở CHDC Đức bảo vệ thành công xuất sắc năm 1973 kèm phần thưởng Humbold Preis năm 1974 .Những tưởng sẽ tăng trưởng được hướng nghiên cứu và điều tra này, nhưng do cuộc chiến tranh và cấm vận quá lâu, nên khi đó ông không triển khai được ở Nước Ta. Do vậy ông đã chuyển hướng sang nghành côn trùng hại kho và mối. ” Vì từ năm thứ tư, khi tốt nghiệp Đại học ( 1965 ) tôi đã có luận văn về mọt gạo. Hơn nữa nghành nghề dịch vụ này rất ít người chăm sóc “, GS Hiển nhớ lại .Những năm 1981 – 1982, Campuchia nhận viện trợ gạo của quốc tế bị nhiễm Mọt cứng đốt ( Trogoderma granarium ) rồi thành dịch. Bộ đội Nước Ta khi về nước mang theo gạo về giúp mái ấm gia đình để làm quà tặng. Không ngờ lan thành dịch. Điều đáng chăm sóc loài mọt này là đối tượng người dùng kiểm dịch của Nước Ta và quốc tế. Do vậy, Ban Bí thư ra thông tư phải diệt loài mọt này với mật danh ” mọt TG ” .” Tôi đã sang Cục Bảo vệ thực vật tập huấn cho cán bộ những Chi cục phân biệt loài mọt này. Vì lúc đó ở Nước Ta không ai có vật mẫu và biết nhận dạng loài này, trong khi tôi đã nuôi và thí nghiệm với loài mọt này hơn 3 năm ở CHDC Đức. Cuối cùng loài mọt có mật danh này cũng bị tàn phá “, GS Hiển nói .GS Bùi Công Hiển (bìa phải) giới thiệu về bộ sưu tập côn trùng. Ảnh: NVCC.GS Bùi Công Hiển ( bìa phải ) trình làng về bộ sưu tập côn trùng. Ảnh : NVCC .

Dành cả cuộc đời nghiên cứu về côn trùng, GS Hiển vẫn còn nhiều trăn trở nhưng “ở đoạn cuối của cuộc đời, không còn nhiều năng lượng để làm việc nữa”, ông nói.

Theo ông, quốc tế côn trùng phong phú, đa dạng chủng loại. Côn trùng đem lại rất nhiều giá trị cho con người, trong nhiều nghành nghề dịch vụ khác nhau. Sao con người vẫn cứ say sưa ” chiến đấu ” với côn trùng bằng ” thuốc trừ sâu ” của những hãng quốc tế ? Sao vẫn để một bộ phận người dân khai thác tận diệt những loài như Sâu chít, Sâu tre, Ong khoái, Kiến gai đen … mà không nhân nuôi thành những trang trại. Sao không đưa côn trùng vào giáo dục và hoạt động giải trí văn hóa truyền thống, du lịch như nhiều nước đã làm ?. Rồi có những loài côn trùng có giá trị vừa phải thôi, nhưng bị thổi phồng lên với biết bao nhiêu hiệu quả thần kỳ. Để rồi người mua, vì thiếu hiểu biết, thậm chí còn có khi rước họa vào thân. Ví dụ đơn thuần nhất là trào lưu sử dụng đông trùng hạ thảo lúc bấy giờ .GS Hiển cho biết, đông trùng hạ thảo được hình thành từ hiện tượng kỳ lạ ấu trùng những loài bướm thuộc chi Thitarodes bị nấm thuộc chi Ophiocordyceps và / hoặc Cordyceps ký sinh. Đó là một dạng ký sinh giữa một loài nấm túi có tên khoa học là Ophiocordyceps sinensis với sâu non ( ấu trùng ) của một loài côn trùng thuộc chi Thitarodes. Đông trùng hạ thảo hầu hết tìm thấy vào mùa hè vùng núi cao trên 4.000 m ở cao nguyên Thanh Tạng ( Thanh Hải – Tây Tạng ) và Tứ Xuyên ( Trung Quốc ). Nhưng lúc bấy giờ còn lại rất ít, gần như vô cùng hiếm gặp .Loại đông trùng hạ thảo bán trên thị trường lúc bấy giờ phần lớn là nhân nuôi nấm trên con tằm. Bản chất của Đông trùng hạ thảo thực sự khác hẳn với việc phun nấm lên con nhộng tằm. Về hình thức, vỏ của con sâu giữa Đông trùng hạ thảo và con nhộng tằm là giống nhau, có lẽ rằng vì vậy mà người ta lầm tưởng rằng chúng là một. Do đó, tính năng cũng khác nhau. Đông trùng hạ thảo nguyên bản đúng là có những hoạt chất hiếm gặp thậm chí còn hoàn toàn có thể ức chế hàng nghìn tế bào ung thư. Nhưng loại Đông trùng hạ thảo phổ cập trên thị trường lúc bấy giờ thì không có hoạt chất đó, hoặc có thì cũng cực kỳ ít, chỉ giống như những loại thực phẩm ăn hàng ngày có dưỡng chất tốt cho khung hình mà thôi .Nhắc lại những khó khăn vất vả và đam mê, GS Hiển ví đoạn đường nuôi con, kiếm tiền và làm khoa học ” giống như bơi giữa biển. Lúc mỏi quá, thò chân xuống, vẫn chưa chạm đất, lại bơi tiếp. Rồi sau cuối cũng đến bờ ” .Điều GS Hiển biết ơn trong cuộc sống khoa học của mình là sự giúp sức nhiệt tình và vô tư của những nhà khoa học quốc tế, trước là CHDC Đức và hiện là Liên bang Đức. Sau đó là những đồng nghiệp, thế hệ nhiều sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh … đã thổi lửa đam mê để ông gạt gánh lo cơm áo sang một bên, chuyên tâm điều tra và nghiên cứu .

Ông bảo, “rất ít người làm khoa học mà giàu có. Tôi hàng tháng trời không có bữa trưa, nhưng vẫn phải lên lớp, vẫn phải ngồi phân tích mẫu ở phòng thí nghiệm. Nhưng không thể bảo như vậy là “say sưa” hơn. Đúng là “buộc vào mà đánh, khen thay chịu đòn”.

Tô Hội

GS.TS Bùi Công Hiển bảo vệ luận án tiến sỹ xuất sắc năm 1973 tại Trường Đại học Tổng hợp Humboldt, Berlin, Cộng hòa Dân chủ Đức và được nhận phần thưởng Humboldt Preis .
Một số khu công trình tiêu biểu vượt trội đã xuất bản gồm : Côn trùng hại kho ( 1992 ), Côn trùng học ứng dụng ( 2002 ), Pheromon của côn trùng ( 2002 ), Giao tiếp sinh học ở động vật hoang dã ( 2009 ), Công trùng ở Nước Ta và phòng trừ côn trùng gây hại ( 2013 ), Động vật gây hại kho tàng và nhà cửa ( năm trước ), Tài nguyên côn trùng ở Việt nam ( 2019 ), Những côn trùng có giá trị ở Nước Ta ( 2020 ) .

5/5 - (1 vote)

Bài viết liên quan

Subscribe
Notify of
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments